Hồi ức sống về huyết mạch thông tin chống Mỹ
Trò chuyện với chúng tôi, ông Ba Lê kể rằng, trong chiến khu, ngành thông tin liên lạc vừa yếu cả về phương tiện, tài chính, trình độ cán bộ. Thế nhưng, những cái khó ấy không làm họ mềm yếu mà chỉ thôi thúc thêm tinh thần đoàn kết, sáng tạo nhằm giữ vững liên lạc, phục vụ các chiến dịch.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh gian khổ, các thành viên Ban Thông tin liên lạc ( Trung ương Cục miền Nam) luôn đảm bảo mạch máu thông tin thông suốt phục vụ chiến dịch.
Ngày “ém” máy xuống sông, đêm đem lên phát tín hiệu
Thành phố Hồ Chí Minh những ngày cuối tháng Tư lịch sử, xen lẫn với dòng người xuôi ngược tấp nập là sự hối hả của những người đang chuẩn bị cho buổi kỷ niệm ngày giải phóng.
Trong căn nhà nhỏ nằm ở Phường 2, quận Tân Bình, ông Ba Lê (Lê Ngọc Trác) lựa lời chối khéo khi được hỏi về mình. Trong tâm khảm của người chiến sĩ trên mặt trận thông tin liên lạc khi xưa, thắng lợi này là của đồng đội những người đã cống hiến cả tuổi thanh xuân, xương máu để giữ mạch máu thông tin cho đất nước
Tháng 10 năm 1961, sau hội nghị cán bộ thành lập Trung ương Cục Miền Nam, Trung ương cục quyết định dời căn cứ từ Mã Đà (chiến khu Đ) trở lại Tân Biên (Tây Ninh). Ban Thông tin liên lạc Trung ương cục (Ban Thông tin R) được thành lập.
Ban Thông tin R có nhiệm vụ tổ chức cụm đài thông tin phục vụ Trung ương cục, chỉ đạo xây dựng mạng lưới thông tin toàn miền Nam, đào tạo cán bộ nghiệp vụ, cung cấp trang thiết bị, thông tin cho các chiến trường…
Nhấp ngụm trà, ông Ba Lê kể rằng trong chiến khu, ngành thông tin liên lạc vừa thiếu, vừa yếu cả về phương tiện, tài chính, trình độ cán bộ. Thế nhưng, những cái khó ấy không làm họ mềm yếu mà chỉ thôi thúc thêm tinh thần đoàn kết, sáng tạo nhằm giữ vững liên lạc, phục vụ các chiến dịch.
Theo lời ông Ba Lê, đa phần máy thu tín hiệu ngày đó cực kỳ lạc hậu bởi có từ thời Pháp. Để giữ thông tin, người cán bộ thông tin phải mua sắm linh kiện tận Campuchia hoặc… lấy của địch về lắp ráp. Trong những cuộc càn quét của địch, nhiều nơi đã phải bọc kỹ rồi “ém” máy xuống sông, trong hầm, trong đống rơm… rồi đêm lại mang lên làm việc. Khi giăng antene, họ cũng phải chọn những tán cây lớn để tránh sự nhòm ngó của máy bay trinh sát…
“Tại chiến khu, người làm thông tin liên lạc phải cố gắng hết sức để trực 24/24 để bảo đảm thông tin. Có một số giờ đứt liên lạc là Trung ương đứng ngồi không yên,” ông Ba Lê kể.
Trong hồi ký đăng trên cuốn “Lịch sửtruyền thống 30 năm Thông tin Vô tuyến điện Nam Bộ,” ông Bùi Nê (tức Bảy Nê-Ủy viên Ban thông tin R) kể rằng, sau hiệp định Genève 1954, ông cùng anh em ở lại miền Nam chờ phân công tác.
Khi đó, tổ đài do ông phụ trách phải đào 3 hầm: Một hầm để anten, một hầm để máy phát điện và một hầm máy làm việc. Hàng ngày, anh em nghề đốn củi bán cho sở cao su để nghi trang. Tại đây, ông Hai Nhựt có sáng kiến cải tiến máy phát điện bằng cách làm cái yên giống yên xe đạp cho một người leo lên ngồi đạp thay cho hai người quay tay.
Ngoài ra, họ dùng hai sợi cước ny long và hai ống nhựa luồn dây ăngten vào (tránh ăngten tiếp đất chạm mát điện) đưa xuống đất. Hai đầu ăng ten cột một sợi nilon và hai đầu sứ cách điện treo lên trên ngọn cây cột lại. Nếu có sự cố, ở dưới hầm buông dây lập tức antene được kéo căng lên ở trên ngọn cây để phi tang…
Sau này, cụm đài của ông Bảy Nê nhập cùng cụm đài của ông Sáu Đại để thành cụm Thông tin B8 và là tiền thân của Ban thông tin R.
Video đang HOT
Ông Nguyễn Thành Danh, nguyên Trưởng Ban Thông tin liên lạc hướng dẫn Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son thăm quan Nhà truyền thống khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam tại ấp Chàng Riệc, Xa Mát, Tây Ninh. (Nguồn: VNPT TP. HCM)
Vỡ òa trong niềm vui đại thắng…
Chiến tranh nào chẳng mất mát, đau thương. Trong ký ức của mình, ông Ba Lê không sao quên được những trận chiến một sống hai chết với kẻ thù.
Năm 1966, sau khi Mỹ mở rộng chiến tranh cục bộ, địch thả biệt kích xuống để tiêu diệt căn cứ địa của ta. Trong cuộc chiến đấu không cân sức ấy, nhiều đồng chí làm công tác thông tin liên lạc đã ngã xuống anh dũng sau khi tiêu diệt được nhiều kẻ thù.
Rồi trận càn năm 1970, địch đánh 52 lượt bằng máy bay B52 và ở dưới đất, xe tăng, bộ binh liên tục càn quét nhưng cũng không khuất phục được tinh thần thép của ta, bằng mọi giá vượt qua vòng vây để phục vụ yêu cầu thông tin của cơ quan Trung ương Cục miền Nam.
Ông Nguyễn Thanh Vân (Ban Thông tin liên lạc phân khu 5) đã kể rất chi tiết trong hồi ký của mình về trận càn của quân Mỹ vào ngày 9/5/1968. Khi ấy, một đại đội lính Mỹ thuộc sư đoàn số 1 “Anh cả Đỏ” đóng ở căn cứ quân sự Phước Vĩnh (Bình Dương) càn quét. Không biết bao nhiêu bom đạn trút xuống trận địa còn đơn vị của ta chỉ có chưa đầy 20 người. Và dù trong tay chỉ có một số tiểu liên và súng trường, nhưng ta đã đánh lui bốn đợt tấn công của lính Mỹ, diệt và làm bị thương nhiều địch, bảo vệ được máy móc, tài liệu và vẫn giữ được mạch máu thông tin…
“Dù phương tiện thô sơ nhưng chúng tôi ai cũng tự tin, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ đài, bảo vệ mạch máu thông tin liên lạc,” ánh mắt ông Ba Lê sáng ngời khi nói đến tinh thần đồng đội.
Kể về thời khắc chính quyền Sài Gòn thất thủ, ông Ba Lê bảo không có niềm vui nào sánh bằng, cho dù trước đó các dự báo đều cho thấy ta sẽ thắng địch nhưng thời khắc thiêng liêng ấy chỉ có một.
Biết Sài Gòn rợp cờ hoa đón đại quân vào tiếp quản, nhưng do nhiệm vụ, ngày 7/5/1975 ông mới về Sài Gòn. Và mười ba năm kể từ khi thoát ly theo kháng chiến, ông Ba Lê khi ấy mới được về quê nhà thăm những người ruột thịt. Và, ông đã chọn ngày 2/9/1975 để làm đám cưới…
Rời nhà ông Ba Lê khi mặt trời lên giữa đỉnh đầu, tôi càng thấy khâm phục ý chí quyết tâm của những người con cách mạng. Một điều chắc chắn rằng, cho dù ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào thì thông tin liên lạc cũng có một vai trò vô cùng quan trọng. Với tôi, những người đã kinh qua chiến tranh, góp phần làm nên đại thắng 30/4 xứng đáng là những anh hùng.
Theo_VnMedia
Cồn Cỏ - Hồi ức những ngày giữ đảo 50 năm trước
Có những ngày địch bắn phá hơn 30 lần hòng cướp đảo, biến nơi đây thành căn cứ quân sự làm bàn đạp mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Giữa bom đạn, thiếu thốn đủ bề, những người lính vẫn kiên trì giữ đảo - giữ một Tổ quốc thu nhỏ giữa trùng khơi.
Đại tá Nguyễn Văn Tuân, nguyên đảo phó đảo Cồn Cỏ.
82 tuổi đời, căn bệnh tim mạch khiến đại tá Nguyễn Văn Tuân (phường Hà Huy Tập, Tp Vinh, Nghệ An) không còn giữ được dáng vẻ tinh anh nhanh nhẹn như trước. Cuộc nói chuyện thỉnh thoảng phải nghỉ giữa chừng để ông ổn định sức khỏe bởi ông vừa trải qua một đợt điều trị dài ngày, mới trở về nhà được 2 hôm.
Nhắc tới đảo Cồn Cỏ, đôi mắt người cựu binh sáng lên. Một thời gian khó, hiểm nguy nhưng cũng là một chương đời rất đỗi hào hùng hiện về trong ký ức.
Cuộc chiến giữ đảo
Năm 1964, anh lính Nguyễn Văn Tuân được điều tới trung đoàn 270, thuộc Sư đoàn 341 - sư đoàn bảo vệ giới tuyến Vĩnh Linh. Thời điểm này, cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đang ở thời kỳ ác liệt. Bằng việc dựng lên "sự kiện Vinh Bắc bộ", Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Vĩnh Linh (Quảng Trị) trở thành giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt hai miền đất nước. Giữa năm 1965, Nguyễn Văn Tuân được điều ra đảo Cồn Cỏ và là Đảng ủy viên, đảo phó đảo Cồn Cỏ.
"Nếu như nói Vĩnh Linh là tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì đảo Cồn Cỏ là vị trí tiền tiêu. Đây là điểm đối đầu giữa lực lượng 2 miền Nam - Bắc. Đảo Cồn Cỏ có vị trí hết sức quan trọng về chính trị lẫn quân sự. Nếu để Cồn Cỏ rơi vào tay địch, chúng sẽ xây dựng căn cứ quân sự, cản trở giao thông tiếp tế từ Bắc vào Nam và là căn cứ quân sự, làm bàn đạp đánh phá ra miền Bắc. Bảo vệ đảo Cồn Cỏ, không để đảo rơi vào tay địch là nhiệm vụ hết sức cấp thiết và vô cùng quan trọng", đảo phó Nguyễn Văn Tuân phân tích về tầm quan trọng của mảnh đất rộng chưa đầy 4km2, cách bờ biển Vĩnh Linh gần 30km theo đường chim bay này.
Đại tá Tuân bên những trang nhật ký những ngày chiến đấu, giữ đảo Cồn Cỏ.
Bởi tầm quan trọng đó, Cồn Cỏ trở thành mục tiêu đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ. Cồn Cỏ nằm riêng biệt giữa biển, mọi thứ từ lương thực, vũ khí, khí tài và cả lực lượng đều phải chi viện từ đất liền ra. Trong khi đó, muốn "làm cỏ" cộng sản trên hòn đảo này, đế quốc Mỹ dùng nhiều tàu chiến, máy bay và cả biệt kích người nhái liên tục tấn công đảo. Có những ngày, địch tổ chức hơn 30 lượt bắn phá từ máy bay, tàu chiến vào hòn đảo này.
"Địch đánh suốt ngày bằng bom, bằng pháo. Đảo Cồn Cỏ có khi không còn một bóng cây, mặt đất như bị cày xới lên từng mét. Lính đảo phải đào công sự dày đặc khắp nơi để chiến đấu với quân thù. Mỗi trận địa đều được anh em đặt một cái tên như Hà Nội, Sông Hồng, Hà Nam, Hải Phòng... Với anh em chúng tôi, đảo như một Tổ quốc thu nhỏ mà nhiệm vụ giữ đảo - bảo vệ Tổ quốc là trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, dù bất kỳ khó khăn, gian khổ, hiểm nguy nào chúng tôi cũng phải hoàn thành", đại tá Tuân nhớ lại.
Lật giở bản sao của cuốn nhật ký (bản chính đang được trưng bày ở Bảo tàng Quân khu 4 - PV), ông chỉ cho tôi xem những dòng chữ dày đặc viết vội vàng. Ở đó, từng ngày, từng phút của cuộc chiến đấu giữ đảo được người đảo phó ghi lại. Có những ngày, những cái gạch đầu dòng - là một đợt Mỹ đánh đảo cứ dài mãi ra, kín hết cả trang giấy. Nhưng những đợt tấn công của địch đều bị lính đảo đẩy lùi.
Lần chỉ huy 1 trận địa pháo hiệp đồng đánh tàu thủy địch được ông ghi vào nhật ký: "4h20 phút 5 tàu địch tập kích vào đảo. Bọn xảo quyệt. Mình đợi chúng nó suốt đêm. Nó cứ gầm gừ ngoài xa. Bây giờ chúng lại đang ở phía Đông Bắc đấm lưng mình. Chúng nhát như thỏ.... Đạn chiu chíu, vượt qua hỏa lực để thực hiện hiệp đồng. Đó kìa, chúng nó đang chạy tháo mạng.
Cuộc chiến giữ đảo được vị đảo phó ghi lại từng giờ, từng phút trong cuốn nhật ký của mình.
Bắn! Bắn. Sao, sao thế? 1 tiếng nổ choáng tai, tối sầm rát mặt mũi. 1 chiến sỹ bị thương nằm xuống bên mình... 13h. Lại đi tổ chức trận địa mới. 21h, 3 tàu địch bắn vào đảo nhưng lần này không lâu đâu, 5 phút thôi. Trận địa của ta đã mở, hướng vào tàu địch nã. Hay lắm. 1 phát, 2 phát... Cừ lắm. 8 phát. Và kìa, vệt sáng lóe lên ở cái hỏa tiễn thứ 4 khổng lồ ấy. A, chúng nó chuồn, chúng nó chạy. Bắn, bắn!
Nhưng lúc đó, 1 quả đạn 40 ly đánh trượt ống nhóm tới tay. Mảnh đạn sượt qua da cổ, mũ sắt rơi xuống. Không hề gì các đồng chí ạ. A lô, a lô K2, tàu địch bỏ chạy, anh em an toàn, kết quả xác minh sau".
Cũng bởi cuộc chiến đấu ở đảo Cồn Cỏ hết sức ác liệt nên đảo nhận được nhiều sự quan tâm, động viên của lãnh đạo Đảng và Quân ủy Trung ương. Bác Hồ còn dặn dò lính đảo trồng cây dong riềng lên nóc hầm và các trận địa, vừa có thể ngụy trang lại vừa có thể tăng gia, tự túc một phần lương thực tại chỗ.
"Thỉnh thoảng, Bác Hồ, Bác Duẩn lại gửi quà ra cho anh em. Những lúc yên bình hiếm hoi, anh em lên mũi đồi cao nhất ngóng về đất liền. Ở đó là quê hương, là cha mẹ, là vợ con yêu dấu. Nhưng ở đó cũng có niềm tin của Đảng, của Bác Hồ, của nhân dân đặt lên vai chúng tôi. Và lính đảo chúng tôi quyết giữ đảo tới cùng", đại tá Nguyễn Văn Tuân nắm chặt bàn tay của mình tự lúc nào.
Tiếp tế cho đảo tiền tiêu
Tháng 1/1966, Nguyễn Văn Tuân được điều về đất liền nhưng không phải để nghỉ ngơi là nhận nhiệm vụ hết sức quan trọng: chỉ huy tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Địch đánh phá đảo, bao vây suốt ngày đêm. Lương thực, vũ khí, thuốc men tiếp tế cho đảo không đáp ứng được nhu cầu ngày càng ác liệt của chiến tranh. Để ngăn chặn nguồn tiếp tế từ trong đất liền ra, địch cho tàu lượn lờ trên biển, truy đuổi, bắn phá hoặc bắt tàu tiếp tế cùng các thành viên trên tàu.
Đã từng phải chịu những trận đói quay quắt trên đảo, tình trạng thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh khiến người phù thủng, nổi mụn nhọt nên Nguyễn Văn Tuân hiểu hơn ai hết những gian khổ, khó khăn của người lính nơi vị trí tiền tiêu này. Địch tăng cường đánh phá trên biển lẫn trên đất liền. Kho hàng phải để cách xa bến 2-3km, phương tiện vận chuyển chỉ là những thuyền 2 buồm, 6 mái chèo, 1 người lái, tải trọng từ 6-10 tấn bởi vậy việc tiếp tế cho đảo gặp rất nhiều khó khăn.
Đại tá Tuân kể về những khó khăn, hiểm nguy khi tiếp tế vũ khí, lương thực cho đảo Cồn Cỏ.
Trước đó, nhiệm vụ này được giao cho lực lượng Hải quân nhưng căn cứ vào tình hình thực tế, Quân ủy Trung ương quyết định Đại đội 22 vận tải thuyền và quân dân Vĩnh Linh sẽ dảm trách nhiệm vụ nặng nề này. Là chỉ huy đại đội vận tải 22, Nguyễn Văn Tuân bắt tay vào một cuộc chiến mới. Với sự chi viện về cán bộ kỹ thuật, động cơ máy, lực lượng vận tải biển nghiên cứu cải tiến, đóng mới tàu thuyền tải trọng lớn phục vụ vận chuyển. Lần đầu tiên, ngư dân Vĩnh Linh đã đóng được tàu máy. Với sự "trợ sức" của động cơ đẩy, tàu chở được nhiều hơn, đi nhanh hơn.
Trong thời kỳ kháng chiến, bộ đội đảo Cồn Cỏ đã bắn rơi 48 máy bay, bắn chìm 17 tàu chiến và tàu biệt kích của Mỹ - ngụy. Với những chiến công vang dội đó, đảo Cồn Cỏ đã vinh dự được Đảng và Nhà nước 2 lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân; được Bác Hồ 3 lần gửi thư khen ngợi và tặng ảnh chân dung của Người.
"Mỗi năm, việc vận chuyển hàng tiếp tế cho đảo chỉ thực hiện được từ tháng 2 âm lịch đến tháng 4-5. Chỉ trong vòng 3 tháng, phải tiếp tế đủ lương thực, vũ khí và cả con người cho đảo trong vòng 1 năm. Từ bến ra đảo chỉ có 30km theo đường chim bay nhưng để tránh địch, mỗi chuyến tàu phải đi suốt cả đêm. Mỗi chuyến đi là cả một cuộc chiến thực sự nhưng đảo gọi, đất liền phải khắc phục tất cả những khó khăn, hiểm nguy để tiếp tế", đại tá Nguyễn Văn Tuân nói.
Mỗi chuyến đi là một cuộc chiến thực sự khi trước mặt là kẻ thù với tàu lớn, vũ khí hiện đại còn phía ta chỉ là những con thuyền thô sơ, ì ạch đè sóng. Đã có những chuyến thuyền 12 chiếc nhưng chỉ có 4 chiếc thoát khỏi vòng vây dày đặc của địch. Mất thuyền, mất hàng, mất người nhưng đau đớn hơn là hàng không kịp tiếp tế ra Cồn Cỏ phục vụ anh em chiến đấu. Bảo vệ hàng là nhiệm vụ hết sức quan trọng, bởi vậy, ngoài việc chất hàng lên tàu, việc bố trí những vũ khí gì để vừa có thể chiến đấu với địch lại không làm ảnh hưởng tới tải trọng cũng như sự an toàn của hàng khiến Nguyễn Văn Tuân cùng đồng đội trăn trở suốt mấy tháng trời.
Và phút giây nhớ về những đồng đội, đồng chí ngã xuống khi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đảo Cồn Cỏ.
Sau khi nghiên cứu kỹ cách xây dựng "công sự" trên thuyền, những chiếc thuyền tiếp tế được trang bị khẩu BKZ, cối 82 ly. Có thuyền lớn, có vũ khí, có kinh nghiệm đi biển của ngư dân và có lòng dũng cảm, kiên cường của những người lính vận tải biển, những chuyến hàng tiếp tế đã ra với đảo nhanh hơn, nhiều hơn để phục vụ duy nhất: giữ đảo - giữ vị trí tiền tiêu của cuộc chiến đấu chống Mỹ giữa giới tuyến phân chi 2 miền Nam - Bắc.
Năm 1967, mặt trận đường 9 được mở ra. Địch phải phân tán lực lượng ra nhiều mặt trận khác nhau, tình hình ở Cồn Cỏ "giãn" ra, bớt khốc liệt. Do yêu cầu của tình hình mới, Nguyễn Văn Tuân được phân công trực tiếp vào các chiến trường.
"Là người lính, tôi tự hào đã góp mặt trong tất cả các chiến dịch lớn, từ Điện Biên, đến Mậu Thân, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sắp tới, kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống anh hùng LLVT đảo Cồn Cỏ (8/8/1959), cũng muốn vào thăm trận địa xưa, thăm anh em, đồng đội đã ngã xuống ở đây nhưng chỉ sợ sức khỏe không cho phép", giọng người lính già chùng xuống. Người lính đã kinh qua những khốc liệt của chiến tranh vẫn mềm yếu khi nghĩ về những đồng đội, đồng chí của mình đã ngã xuống trên chặng đường vạn lý trường chinh của dân tộc.
Hoàng Lam
Theo Dantri
Vùng đất lửa đi qua hai cuộc chiến khốc liệt Một vùng đất lửa, đi qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, vẫn đứng đó, hiên ngang và bất khuất suốt những năm tháng qua để chứng kiến mảnh đất miền Nam ngày càng thay da đổi thịt. Ban chấp hành Trung ương cục Miền Nam. Để hiểu rõ hơn về mảnh đất lịch sử Chiến khu Đ (CKĐ) thì hãy một lần...