Hồi ức của người phi công lái chuyên cơ chở Bác Hồ
Đại tá Trần Ngọc Bích đã bước sang tuổi 82, nhưng nhắc đến những kí ức lái chuyên cơ chở Bác Hồ đi công tác vẫn mãi khắc sâu trong tâm trí của người lính xưa.
9 năm lái chuyên cơ chở Bác
Gần đến ngày sinh nhật Bác (19/5) người phi công trẻ năm xưa Trần Ngọc Bích ở xã Vạn Phúc Trung, xã Trường Sơn, Đức Thọ (Hà Tĩnh) lại nhớ đến những kỷ niệm không bao giờ quên trong những năm gần bên Bác. Sau khi lau dọn bát nhang, mâm ngũ quả, để trà bánh bày lên bàn thờ Bác, ông kể lại những ký ức trong 9 năm lái chuyên cơ chở Bác.
Ông Bích ngồi kể lại những ký ức xưa ở bên cạnh Bác.
Khi chưa đến 19 tuổi, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, Trần Ngọc Bích đã nhập ngũ vào tháng 10/1953. Đến tháng 2/1956, ông được tuyển chọn đi sang tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc học lái máy bay. Tháng 4/1958, ông tốt nghiệp lớp máy bay TU2 (máy bay ném bom), ở Trung Quốc. Vào thời điểm đó tình hình trong nước có một số biến động, ông Bích phải chuyển sang học lớp máy bay AN2 (vận tải). Sau khi hoàn thành khóa học, tháng 2/1960, ông về nước tham gia vào Đoàn bay 919, thuộc Quân chủng phòng không không quân Việt Nam.
Lúc bấy giờ, Việt Nam chỉ có ba chiếc máy bay trực thăng, chưa có người lái, phía Liên Xô cử một chuyên gia dạy lái và một thợ sửa máy sang giúp đỡ. Khi chuyên gia Men-lê-ép lái máy bay đưa Bác đi công tác thì thiếu lái phụ, nhận thấy ông Bích có tài năng, được đào tạo nên cho ông đảm nhận nhiệm vụ đó. Sau đó, ông Bích còn được nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng để chuyên chở vũ khí, lương thực chi viện cho các chiến trường. Không lâu sau, Đoàn bay 919 hình thành một tổ bay phục vụ Bác và Bộ Chính trị.
Từ đó, ngoài việc chuyển vũ khí và lương thực chi viện cho chiến trường, máy bay Mi-4 của ông còn đảm nhận nhiệm vụ đặc biệt là bay phục vụ Bác Hồ và các đồng chí Trung ương Đảng đi công tác.
Video đang HOT
Trong từ đường khang trang, ông Bích dành một phần trang trọng, bày bàn thờ Bác Hồ
Trong 9 năm phục vụ Bác, (từ năm 1960- 1969), ông Bích không nhớ mình đã bao nhiêu lần lái chiếc máy bay VN51Đ và chiếc “Lốc xoáy 48″ đưa Bác đi công tác xa. Ấn tượng nhất vào năm 1963, ông đưa Bác về Tuyên Quang, thăm đồng bào, thăm lại căn cứ địa cách mạng Tân Trào. Trong chuyến bay đó có mấy đồng chí đi cùng với Bác là đồng chí Phạm Ngọc Thạch, đồng chí Vũ Kỳ và đồng chí Trần Đăng Ninh.
Buổi chiều máy bay hạ cánh ở Tuyên Quang, lúc đó trời tối nên Bác phải nghỉ lại. Sáng hôm sau, ông Bích đã lái máy bay đưa đoàn vào Tân Trào. Vừa hạ cánh, Bác xuống đi bộ đến một khe suối và nói với mọi người rửa tay chân rồi ăn cơm. Nhìn Bác cởi trần, mặc một chiếc quần cộc, dùng tay khoát nước lên người, ông Bích không ngờ trên thế giới này lại có một vị Chủ tịch quá đỗi giản dị như thế. “Không có bữa cơm nào mà bình dị như bữa cơm ở Tân Trào năm 1963. Bác cùng với đoàn đã trải một chiếc ni-lông, dùng dao thái từng nắm cơm đùm. Bác chia cho mỗi người một miếng cơm và nói “các chú ăn no vào, tối chúng ta mới về đến Hà Nội”, ông Bích nhớ lại.
Bác Hồ về thăm Phú Thọ năm 1964 (Ảnh tư liệu)
Những ký ức không quên
Đến bây giờ hơn 80 tuổi, ông Bích không ngờ mình lại được may mắn lái máy bay cho một vị lãnh tụ giản dị như Bác. Trong 9 năm lái máy bay đưa Bác đi công tác hay đi thăm đồng bào ông Bích nhận ra ở vị cha già dân tộc có một cái gì đó rất gần gũi. Lần đầu tiên làm phụ lái cho chuyên gia Men-lê-ép, ông rụt rè, e ngại, khi nghĩ tiếp xúc với Bác sẽ rất khó. Nhưng sau khi được Bác hỏi thăm quê quán và dặn: “Cháu cố học lái cho bằng anh, bằng em” thì ông Bích mới biết trong suốt cuộc đời hy sinh vì dân vì nước, Bác rất quan tâm đến người khác cho dù đó là một anh lính tập sự.
Ông Bích nhớ lại, vào năm 1963, sau khi lái máy bay đưa Bác và anh hùng vũ trụ Ti-Tốp (German Titov) đi thăm Vịnh Hạ Long về, Bác đã cho người gọi tổ bay ông Bích lên Phủ Chủ tịch cùng ăn cơm
“Lần thứ hai cũng vậy, ăn cơm với Bác thì tôi được ăn nhiều rồi. Nhưng được Bác gọi lên Phủ Chủ tịch ăn cơm, xem phim thì mới hai lần. Tôi cảm giác giữa một nguyên thủ quốc gia với một phi công lái máy bay như tôi không còn ranh giới nữa. Bác xem tất cả mọi người như con của một nhà”, ông Bích chia sẻ.
Cứ ngày rằm, mùng 1, hay ngày giỗ Bác, ông Bích lại sửa soạn bày hương hoa lên bàn thờ Bác Hồ.
Một kỷ niệm đáng nhớ nữa là vào 3/1969. Năm đó máy bay Mỹ ném bom, cầu Long Biên bị hư hỏng nặng, đường ra sân bay Nội Bài bị chia cắt. Ngày hôm đó ông Bích nhận mật hiệu “chuyến cơ A” đi đón Bác từ sân bay Nội Bài.
“Tôi vẫn nhớ chuyến bay đưa Bác từ sân bay Nội Bài về Phủ Chủ tịch. Hôm đó tôi chờ Bác ở sân bay. Khi Bác bước lên máy bay để về Phủ Chủ tịch tôi nhận ra, Bác đã gầy yếu đi rất nhiều. Từ chuyến bay đó tôi cùng đội bay đi an dưỡng tại Tam Đảo. Và cũng từ đó tôi không nhận được mật hiệu “chuyên cơ A”. Đó là “chuyến cơ A” cuối cùng trong lịch sử Hàng không Việt Nam. Vào khoảng cuối tháng 8/1969, chúng tôi nghe Đài tiếng nói Việt Nam thông báo Bác lâm bệnh nặng, được mấy ngày sau Chủ tịch Hồ Chí Minh mất”, ông kể.
Hiện nay trong ngôi nhà từ đường khá khang trang của ông Bích có một gian dành riêng đặt bàn thờ Bác. Đến ngày mồng một, ngày rằm ông thường thắp hương lên bàn thờ. Đặc biệt đến ngày sinh nhật và ngày giỗ của Bác, ông tự mình đi mua hương hoa, trà bánh bày lên bàn thờ. Bác đối với ông như người cha trong đời.
Theo ANTD
Hồi ức của "cha đẻ" những con tàu không số
Tàu không số góp phần làm nên chiến thắng giải phóng miền Nam (ảnh tư liệu).
Những năm kháng chiến chống Mỹ, cùng với tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ thì đường Hồ Chí Minh trên biển đã đi vào lịch sử như một huyền thoại góp phần làm nên thắng lợi của cuộc giải phóng miền Nam.
Gắn liền với huyền thoại đó là đoàn tàu "Không số" (TKS). Và với ông Trịnh Xương (sinh năm 1935 tại Thanh Hóa) - nguyên Viện trưởng Viện Khoa học - Công nghệ tàu thủy Việt Nam, Trưởng ban thiết kế TKS năm xưa - mỗi thời điểm lên ý tưởng cho con tàu và thực hiện nó là thêm một lần khẳng định tinh thần yêu nước, yêu nghề và là sự minh chứng cho niềm tin của các đồng chí lãnh đạo với ông và nhóm thiết kế.
"Cha đẻ" của đoàn tàu Không số
Giờ thì "cha đẻ" của những chuyến TKS đã cận kề tuổi 80. Nhóm 4 người thiết kế TKS, người còn người mất, nhưng chỉ số ít người dân là biết đến "sứ mạng" lịch sử của họ. Vừa bắt đầu cuộc chuyện, ông Xương "đính chính" luôn: "Một số bài báo ghi không đúng rằng, khi được giao thiết kế con tàu, tôi không biết là thiết kế con tàu làm gì. Bởi các yêu cầu về trọng tải, về hình dáng được Phó Thủ tướng Phạm Hùng đưa ra bàn bạc rất nhiều. Tất cả các thành viên tham gia cuộc họp đều cùng đóng góp ý kiến về con tàu 100 tấn này. Và tôi có thời gian suy nghĩ hai tuần để trả lời về phương án thiết kế con tàu".
Ông Trịnh Xương - trưởng nhóm thiết kế tàu không số - vẫn nhớ như in những thời khắc khó khăn khi khai sinh đoàn tàu không số. Ảnh: Lê Thơm
Sau 5 năm miệt mài học tập tại Trường Chuyên nghiệp đóng tàu Thượng Hải (Trung Quốc), ông cùng một số cán bộ kỹ thuật và kỹ sư hoàn thành nhiệm vụ lần lượt trở về nước phục vụ cách mạng.
Ký ức ngày nào bất chợt ùa về qua chất giọng Hà Nội trầm ấm, ông Xương nhớ lại: Vào đầu năm 1961, Hội nghị T.Ư họp bàn đưa ra nhận định về việc Mỹ-Ngụy leo thang chiến tranh tại chiến trường miền Nam và phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ. Địch đánh phá ác liệt tuyến đường Trường Sơn nhằm chặt đứt con đường tiếp viện của ta từ miền Bắc vào Nam bằng đường bộ.
Ngay lúc đó, ban lãnh đạo T.Ư Đảng đã họp khẩn cấp và vạch ra nhiệm vụ bằng mọi giá phải chi viện được cho miền Nam. Ý tưởng chiếc tàu vận tải lớn trên biển được gợi ra và Phó Thủ tướng Phạm Hùng có trách nhiệm cùng các đồng chí khác trong ban lãnh đạo chỉ đạo thiết kế, xây dựng. Đó là một con tàu trăm tấn chở được vũ khí hạng nặng, chịu được sóng gió cấp 8 - 9, nhiên liệu có thể chạy 20 - 30 ngày, chở được ít nhất 12 thuyền viên nhưng mục tiêu phải nhỏ gọn. Tàu vừa có thể đi ra công hải, vừa đi ven bờ và chạy nhanh khi quân Mỹ tấn công.
Một yêu cầu quả là khó khăn ấy được đích thân Phó Thủ tướng Phạm Hùng giao cho nhóm thiết kế. Nhận nhiệm vụ - ông Xương vừa tự hào, nhưng đồng thời cảm thấy trách nhiệm đè nặng. Ngay lập tức, ông đã cùng các kỹ sư Đinh Ngọc Liễn, Lương Văn Triết,... tìm mọi cách để giải bài toán đố về hình dáng, kết cấu của con tàu. Sau nửa tháng trăn trở, suy nghĩ, ông cùng đồng nghiệp đã phác thảo nên chiếc tàu có trọng tải 100 tấn. Được cấp trên ủng hộ và đồng ý cho xây dựng tiếp thiết kế sơ bộ nên chỉ 1 tháng sau đó, nhóm đã hoàn thành và đáp ứng được yêu cầu đặt ra của tổ chức, hình tuyến được chuyển gấp đến xưởng đóng tàu số 3 (Hải Phòng) để thi công. Cấu tạo chung của tàu bao gồm 3 hầm (1 hầm lái và 2 hầm hàng). Và cũng từ xưởng đóng tàu này, 6 chiếc tàu 100 tấn đã lần lượt ra đời.
Những con tàu làm nên huyền thoại
Theo ông Xương, từ chiếc thứ 7, khâu thi công được chuyển giao lại cho nhà máy đóng tàu Tam Bạc (Hải Phòng). Sau khi hoàn thành chiếc tàu thứ 13, việc thi công được di chuyển sang Thượng Hải (Trung Quốc), ông Xương phải trực tiếp sang đó theo dõi quá trình đóng tàu.
Đến tận giờ, ông Xương vẫn chưa quên cảm giác hồi hộp, lo lắng đến nghẹt thở khi đưa TKS đầu tiên hạ thủy. "Ngày đó không có máy móc để vẽ, mọi tính toán đều được làm thủ công. Từ lúc đưa ra ý tưởng đến hoàn thành con tàu đầu tiên là trong vòng 3 tháng. Chiếc tàu hạ thủy thành công và đi chuyến đầu tiên cập bến an toàn là thông tin tuyệt vời nhất trong đời mà tôi từng nhận được" - ông Xương tâm sự.
Theo ông Xương, toàn bộ những con tàu đóng xong được giao cho Đoàn 759 anh hùng (tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân) phụ trách khai thác. Nhờ vậy mà một lượng lớn vũ khí đã được chở vào chiến trường miền Nam để mở nhiều chiến dịch, trận đánh tại mặt trận phía Đông và Tây Nam Bộ. Việc nghiên cứu, thiết kế và chế tạo thành công số lượng tàu trên trở thành "cú hích" tạo đà cho những thắng lợi vang dội của ta trong những năm sau đó.
Trước diễn biến phức tạp của cuộc chiến tại miền Nam, trong khi quân giặc tìm mọi cách leo thang chiến tranh, chúng cho quân phong tỏa, chặn đánh tất cả các cửa ngõ vào miền Nam hòng ngăn chặn mọi sự chi viện cho miền Nam. Trước tình hình đó, nhóm thiết kế được yêu cầu phải thiết kế loại tàu vừa đảm bảo vũ khí, hàng hóa vào miền Nam nhưng đồng thời che mắt được địch. Lập tức, nhóm đã đề xuất với Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Phan Trọng Tuệ cho đóng gấp rút loại thuyền vỏ gỗ có trọng tải 3 - 5 tấn giả dạng là tàu đánh cá của ngư dân. Chiếc tàu này được thiết kế hai đáy. Đáy dưới giấu vũ khí, còn mặt trên vẫn được ngụy trang như một tàu cá để qua mặt các cuộc kiểm tra của quân địch. Đề xuất một lần nữa được chấp thuận.
Theo ông Xương, ngay lúc đó, các tỉnh phía bắc có nghề đóng tàu thuyền được triệu tập tham gia chiến dịch đóng tàu. Theo thiết kế sẵn, hàng nghìn chiếc tàu chiến với vỏ bọc tàu cá đã hoàn thành. Suốt một thời gian dài, những chiếc tàu đánh cá này đã âm thầm đưa người và vũ khí vào sâu trong tiền tuyến.
Nói về những chiếc tàu biến hình, ông Xương vẫn chưa thể lý giải nổi khả năng kỳ diệu của con người, mà ông cùng với đồng nghiệp đã miệt mài sáng tạo nên. "Có lẽ tuổi trẻ, lòng yêu nước, sự tin tưởng của các đồng chí lãnh đạo đã khiến chúng tôi làm được việc đó" - ông chia sẻ. Thậm chí, chính ông Xương cũng bất ngờ trước sức mạnh của những "đứa con" không tên. "Sau này, khi Mỹ công khai các báo cáo, tôi mới biết Mỹ đã từng mất 3 ngày truy đuổi một TKS mà không bắt được" - ông Xương tự hào chia sẻ.
Nói là đoàn TKS, nhưng chiếc tàu nào cũng có số hiệu đầy đủ như: Tàu 43, tàu 54, tàu 198... song để giữ bí mật, các con tàu này không sơn số hiệu lên tàu.
Trên những chuyến tàu ấy, trong suốt gần chục năm từ 1961 đến 1975, hàng vạn lượt người, cùng hàng ngàn tấn vũ khí, thuốc men từ hậu phương miền Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam góp phần cùng toàn dân đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Theo laodong
Kỳ lạ con bướm cứ ngày giỗ lại trở về đậu trên bát nhang "người hóa bướm"? Chưa hết đau buồn với cái chết của người thân, những người còn sống lại thêm một phen hoảng hồn về "hiện thân của người chồng trong lốt bướm &'về' quyến luyến. Chú bướm cứ đến ngày giỗ anh Hòa lại bay về đậu trên bát nhang. (Ảnh minh họa) Sau một thời gian dài xôn xao, đến nay vẫn chưa ai giải...