Hỡi những đứa trẻ miền Nam, tình hình nồi thịt kho nhà các bạn đã được giải quyết đến đâu rồi?
Dù đã ăn thịt kho “dầm dề” gần như mỗi ngày từ 30 Tết nhưng hiếm có nồi thịt kho nào lại thấy đáy ngay mùng 3 mà phải đến tận mùng 4, mùng 5 cơ. Tuy nhiên, dù “ngán ngẩm” là vậy nhưng nồi thịt kho to quá khổ ấy vẫn gắn liền với ký ức những ngày Tết của bao người miền Nam.
Hầu hết những đứa trẻ lớn lên ở vùng phía Nam Tổ quốc thường có một mối quan hệ yêu-ghét đan xen với nồi thịt kho ngày Tết.
Nguồn ảnh: Kaa Illustration.
Thịt kho là một trong những món dễ ăn nhất, chỉ cần trong nhà có nồi thịt kho thì mấy bữa sau chỉ cần thêm nồi cơm là có thể ăn xong một bữa hoàn chỉnh. Thịt kho có thể ăn cùng với cơm, với bánh tét, hay thậm chí là bánh mì, bánh bao nhạt, ăn với món nào cũng ngon. Thịt kho miền Nam ngọt nước dừa, đậm đà nước mắm, lại thêm beo béo ngậy của thịt mỡ không kén ăn chút nào, từ cụ già đến trẻ nhỏ đều thích. Đấy là “yêu”.
Tuy nhiên, với quan niệm Tết nhất thì cái gì cũng phải sung túc và giàu có thì hầu hết những nồi thịt kho đều có kích cỡ “to chà bá”. Nhiều người tin rằng đầu năm “dư” thì cả năm mới “dư” nên nồi thịt kho này thường nhiều hơn một ít so với khả năng ăn của gia đình. Ví dụ như 4 người có thể ăn một kí thịt thì các nhà có điều kiện ai nấy đều mua dư ra thêm vài lạng. Kết quả là xuyên suốt ba ngày Tết (và còn mấy ngày sau), những đứa trẻ miền Nam chỉ có thịt kho bầu bạn. Đây là “chán”.
Tết miền Nam mà vắng thịt kho tàu thì còn gì là Tết?
Song, dù ai nói ngả nói nghiêng, dù năm nào cũng ăn đến phát ngấy thì không ai nghĩ đến chuyện bỏ nồi thịt kho ngày Tết, cũng như muốn nấu ít đi, chỉ đủ để ăn bữa cơm tượng trưng. Nồi thịt kho miền Nam dù ít đến thế nào cũng phải “trụ” qua ba ngày Tết. Nồi thịt kho Tết của người miền Nam, vượt trên cả hương vị và giá trị thực tế khác, đã mang ý nghĩa sâu sắc to lớn về mặt tinh thần.
Không biết có nguồn gốc từ đâu và bắt đầu từ khi nào, nhưng từ khi mỗi người con miền Nam bắt đầu biết nhớ và ý thức được thì điều này đã diễn ra vào mỗi năm xuyên suốt biết bao thế hệ rồi. Con học từ cha mẹ, cha mẹ học từ ông bà, ông bà học từ cha mẹ của ông bà… Việc biết phải nấu một nồi thịt kho trong ngày Tết của người miền Nam gần như là bản năng, một phần con người rồi chứ không chỉ đơn thuần là kiến thức ngoài thân.
Có nhiều người lý giải nguyên do đằng sau nồi thịt kho Tết này rằng miền Nam có đặc điểm khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp nuôi các loại gia súc cỡ vừa như heo (lợn) nên thịt heo rất dễ tìm. Ngoài ra thì nước dừa – thành phần không thể thiếu của nồi thịt kho tàu miền Nam – cũng là thức phổ biến ở các tỉnh thành trong Nam.
Video đang HOT
Mặt khác, nhiều người cho rằng món thịt này có nguồn gốc từ người Hoa do cái tên “thịt kho tàu”, nhưng chữ “tàu” ở đây không phải chỉ món Hoa mà có nghĩa là “nhạt, lờ lợ”. Nghĩa là thịt kho tàu ngày Tết có vị nhạt hơn so với thịt kho bình thường. Thịt kho tàu ngày Tết có nhiều nước, nước lỏng chứ không đặc sánh như sốt trong món thịt kho bình thường. Nước trong nồi thịt có đến 80% là nước dừa (hoặc 100%) nên có vị ngọt thanh nhè nhẹ, đậm đà nhưng không mặn. Nồi thịt kho ngon và đẹp là nước phải trong một chút, bên trong nổi một ít váng mỡ lấp lánh nhưng không dày đặc.
Thịt kho tàu phải có nhiều nước, nước phải trong.
Nồi thịt kho tưởng chừng đơn giản này thực chất cũng rất phức tạp, hương vị trong món này thể hiện rõ phong cách ẩm thực miền Nam đó là sự “phân tầng”. Người miền Nam thích một món có nhiều vị rõ rệt, ví dụ như canh chua miền Nam bao giờ cũng có vị chua từ các loại trái khác nhau như me, khóm (thơm) và vị ngọt từ đường cùng vị mặn đan xen. Món thịt kho này cũng thế, khi ăn sẽ có vị ngọt khá rõ, nếu dùng nước dừa ngon thì vị ngọt này thanh, song nhiều nhà có thêm ít đường nếu thấy nhạt. Người miền Nam thích dùng nước mắm hơn muối, cho rằng như vậy đậm đà hơn. Bản thân nước mắm cũng là loại nguyên liệu đa vị, ngoại trừ mặn ra thì còn có chất cá làm hương vị thêm đặc trưng. Có thể nói, thịt kho tàu là một đại diện thuộc hàng “kinh điển” cho ẩm thực miền Nam.
Không có lý giải nhiều vì sao thịt kho tàu lại có ý nghĩa như vậy với người miền Nam, ngoại trừ sự thật rằng thời gian và thói quen làm nên sự gần gũi, thân thương. Thịt kho gần như gắn liền với sự đoàn viên, là món ăn đồng hành cùng gia đình vào bữa cơm đầu tiên của năm đông đủ các thành viên. Ngoài ra thì, muốn nấu một nồi thịt kho tàu ngon thì phải nấu với số lượng lớn một chút, chứ nấu bằng nồi nhỏ và nấu ít thì cứ thấy… thiếu thế nào. Thậm chí, nếu nấu thịt kho tàu vào ngày thường thì người ta cũng sẽ nấu để ăn dần trong một vài ngày, chứ chẳng ai nấu thịt kho tàu để ăn một bữa duy nhất cả. Chính vì điều này mà đây là một trong số những món ăn “khổ trước sướng sau”, nhiều du học sinh xa nhà vì nhớ mùi vị quê hương cũng cố gắng nấu, dù hơi phức tạp song lại có thể ăn trong nhiều ngày sau mà không mất công nấu.
Đã mùng 3 Tết, nồi thịt kho nhà bạn đã được “xử lý” đến đâu rồi?
Theo Trí Thức Trẻ
Tết miền Nam có những món ngày nào cũng ăn, nghĩ đến là "mệt" nhưng nếu thiếu thì không được
Không hiểu vì sao mà có những nhà ngày nào cũng ăn thịt kho tàu, ăn đến phải "xin tha", nhưng năm sau vẫn lại nấu tiếp nồi to, bảo thiếu thì còn gì là Tết!
Không chỉ xuất hiện trong mâm cúng, có những món ăn xuất hiện xuyên suốt mùa Tết từ những ngày 25, 26 Tết kéo dài đến mùng 4, mùng 5 hoặc thậm chí là dài hơn như một nguyên tắc bất thành văn. Đó là những món mà chỉ cần xuống bếp những ngày này là thấy, đói bụng mở tủ ra lục lọi cũng thấy, khách đến nhà cũng lấy luôn món ấy ra mời, mười nhà như một. Đó là những món mà những đứa trẻ miền Nam phải ăn đi ăn lại hầu như mỗi ngày vào dịp Tết. Những món ăn ngày Tết ấy qua bao năm vẫn vậy, ai thích thú thì thích thú, ai ngán ngẩm thì ngán ngẩm, nhưng phải công nhận là không có những món này thì chẳng còn có cảm giác Tết nữa.
Cùng chúng mình điểm qua những "gương mặt thân quen" góp phần mang đến không khí Tết ấy sau đây nhé!
Thịt kho tàu
Nhà nào cũng có một nồi thịt to để ăn xuyên Tết.
Nếu bạn là người miền Nam, thì đảm bảo là nhà sẽ có một nồi thịt kho. Thịt kho này không phải thịt kho bình thường mà là thịt kho tàu, kho bằng nước dừa, nước lỏng và nhiều như canh vậy, có một ít màu nâu nhạt do đường thắn. Thịt trong này có phân nửa là mỡ, đặc biệt béo, khiến nước thịt hay nổi lên váng mỡ nhàn nhạt lấp lánh rất hấp dẫn (ít ra là trong mấy ngày đầu mình thấy nó).
Đặc biệt, chiếc nồi này cực to, không phải loại thịt kho theo bữa ăn như bình thường, mà là một nồi thịt kho bằng chiếc nồi to nhất nhì trong nhà, để cả gia đình ăn trong những ngày Tết. Đối với một số người thì nồi thịt kho này giống như "ác mộng" khi mà ngày nào cũng phải liên tục ăn ba bữa... Tuy nhiên nếu Tết miền Nam mà không có thịt kho hột vịt thì thiếu vắng và buồn sao đó, nên thà ăn đến ngán thì mọi người vẫn phải nấu cho được nồi thịt to mời cả nhà ăn xuyên Tết.
Bánh tét
Có một sự thật là, như thể ở nhà mình ăn chưa đủ bánh bánh tét, thì sang nhà nào thăm viếng cũng được mời một vài khoanh... Bánh tét và bánh chưng gắn liền với Tết như một lẽ đương nhiên, song cũng không dừng lại ở mâm cỗ Tết, hai món này còn đồng hành với những đứa trẻ mọi miền trong các mùa Tết.
Không biết có phải nhà nào cũng thế không, nhưng dường như các bà nội trợ miền Nam không thường nấu nướng nhiều trong ba ngày Tết. Và quả thật là họ có quyền như vậy vì sau khi đồn hết tinh lực vào mâm cỗ Tết hoành tráng thì ai nấy cũng mệt, thế nên những bữa cơm suốt Tết của những đứa trẻ miền Nam gần như là bánh tét chiên ăn cùng thịt kho (phía trên).
Chả lụa
Đối với những đứa trẻ miền Nam thì câu được nghe nhiều nhất khi vào bếp có lẽ là "XX ơi đi cắt chả lụa đãi khách đi con". Trái với thịt kho không hay được mang ra mời thì chả lụa, cũng như bánh tét, hay đi cùng nhau và đồng hành trong việc mời khách. Chả lụa thực ra có thể được ăn quanh năm, bằng chứng là các xe bánh mì dạo nào cũng có bán cả chả lụa, nên đây cũng không phải món ăn đặc biệt gì. Tuy nhiên vì một số lý do mà Tết nào cũng phải có từ 1 đến 2 ký chả lụa.
Có lẽ là vì chả lụa để lâu được, không mắc công chế biến và có thể ăn ngay bất kì lúc nào. Chả lụa ăn cùng bánh tét, cùng cơm hay bánh mì đều ngon.
Các loại mứt
Có một sự thật là, đồng hành với sự du nhập của các món bánh trái phương Tây thì đa phần chúng ta đã không còn quá mặn mà với các loại bánh, mứt nữa. Tết là một trong số ít những dịp chúng ta thấy được các loại mứt, bánh truyền thống. Và vì hầu hết các hàng quán đều đóng cửa dịp Tết nên hiển nhiên bánh mứt là lựa chọn ăn vặt hiếm hoi ta có. Việc ngồi vắt vẻo trên ghế rồi cắn hạt dưa, nhai ít mứt và uống trà trong khi chờ khách đến chơi là một trong những hoạt động chỉ tồn tại vào dịp Tết mà thôi.
Dưa chua
Có nhiều nhà bình thường vẫn có dưa chua, nhưng lại có những gia đình hầu như không bao giờ ăn dưa chua trong cả năm, trừ Tết. Tết là dịp tụ hội của biết bao những lọ dưa chua, dưa muối, củ cải muối... Nhiều đến mức còn chưa vào bếp đã ngửi thấy mùi hăng hăng đặc trưng từ bên ngoài. Nhiều người không thích ăn dưa chua, nhưng lại không thể phủ nhận là nếu thiếu nó thì các món bánh tét, thịt kho trở nên ngậy và ngán hơn hẳn. Dưa chua chính là "cứu cánh" đắc lực của những pha lỡ ăn quá nhiều thịt mỡ.
Mặt khác, người miền Nam có thói quen gọi chung các loại cải, rau củ muối là "dưa chua", nhưng trong thực tế thì ở đây phổ biến nhất với củ kiệu, củ cải và rau cải muối.
Theo Trí Thức Trẻ
Đủ kiểu ăn bánh tét của người miền Nam, thậm chí có cả bánh tét chấm... sữa Nếu bánh tét dưa hành đã quá quen thuộc, bạn đã bao giờ ăn thử bánh tét chấm... sữa chưa? Chắc chắn bạn sẽ phải bất ngờ về mùi vị của nó đó. Tết miền Nam tuyệt nhiên không thể thiếu bánh tét. Chính vì vậy mà mỗi nhà đều mua về ít nhất 1 cặp (hoặc 2 "đòn" - cách gọi của...