Hội nghị UNCLOS: VN lên án vi phạm của Trung Quốc
Tại Hội nghị lần thứ 24 các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, VN đã lên án mạnh mẽ Trung Quốc vi phạm phạm luật pháp quốc tế và các quy định của UNCLOS, đi ngược lại DOC cũng như các thỏa thuận giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc.
Ảnh chụp ngày 7/5 cho thấy tàu Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu Việt Nam.
Từ ngày 9-13/6/2014 tại trụ sở Liên hợp quốc, New York, Hoa Kỳ đã diễn ra Hội nghị lần thứ 24 các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Tham dự Hội nghị có 159/166 quốc gia thành viên của Công ước. Hội nghị đã xem xét và thông qua báo cáo về hoạt động trong năm 2013 của Tòa án quốc tế về Luật Biển, Cơ quan Quyền lực đáy đại dương và Ủy ban Ranh giới ngoài thềm lục địa – ba cơ quan được thành lập theo quy định của Công ước; bầu ra bảy thẩm phán Tòa án quốc tế về Luật Biển nhiệm kỳ 2014 – 2021 và một thành viên Ủy ban Ranh giới ngoài thềm lục địa.
Tại phiên họp toàn thể của Hội nghị, Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn Đại diện thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc, Trưởng đoàn Việt Nam, đã phát biểu đề cao vị trí và vai trò của Công ước như một “Hiến chương về Đại dương” và là thành quả nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng một trật tự pháp lý quốc tế hợp lý và công bằng trong việc sử dụng, khai thác, quản lý và phát triển bền vững biển và đại dương. Đại sứ cũng nhấn mạnh trong những năm qua, Việt Nam luôn là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của Công ước, nghiêm túc thực hiện các quy định của Công ước và nỗ lực góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông – vùng biển có ý nghĩa quan trọng không chỉ về kinh tế, phát triển đối với các quốc gia ven biển mà còn cả về giao thông, thương mại đối với các quốc gia ngoài khu vực.
Trong bài phát biểu, Đại sứ Lê Hoài Trung đã thông báo cho Hội nghị diễn biến nghiêm trọng trên Biển Đông thời gian gần đây do việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam và huy động hơn 100 tàu hộ tống, trong đó có tàu quân sự và máy bay, đâm va, phun vòi rồng vào các tàu dân sự của Việt Nam, thậm chí đâm chìm một tàu cá Việt Nam với 10 ngư dân trên tàu khi tàu đang hoạt động đánh bắt bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đại sứ đã lên án các hành động của Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán tại các vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước và đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông.
Đại sứ Lê Hoài Trung nêu rõ các hành vi này đã vi phạm luật pháp quốc tế và các quy định của Công ước, đi ngược lại Tuyên bố Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc cũng như các thỏa thuận giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam đã hết sức kiềm chế và liên tiếp đưa ra những đề nghị có tính chất xây dựng. Việt Nam đã có trên 30 cuộc giao thiệp ở các cấp và qua các kênh khác nhau để yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu hộ tống, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc đối thoại; đồng thời đã đề nghị sớm tiến hành trao đổi và đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tuy nhiên, Trung Quốc không những không đáp ứng tích cực yêu cầu của Việt Nam cũng như kêu gọi của cộng đồng quốc tế mà còn tiếp tục những hành vi sai trái của mình. Đại sứ Lê Hoài Trung tiếp tục yêu cầu Trung Quốc ngay lập tức rút giàn khoan Hải Dương-981 và các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển Việt Nam và giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán và các biện pháp hòa bình khác phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển. Đại sứ cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế, kể cả các nước thành viên Công ước, tiếp tục quan tâm đến tình hình Biển Đông, phản đối các hành vi đơn phương gây căng thẳng, đồng thời ủng hộ việc không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực và giải quyết tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trong phần thảo luận, đoàn Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, tiếp tục chỉ ra tính bất hợp pháp của việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam; bác bỏ những quan điểm sai trái và xuyên tạc mà đoàn Trung Quốc trình bày tại Hội nghị.
Video đang HOT
Cũng trong Hội nghị, một số nước như Nhật Bản, Philippines, Malaysia… đã phát biểu bày tỏ quan tâm và lo ngại trước những diễn biến phức tạp tại Biển Đông, kêu gọi các bên kiềm chế, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước Luật Biển, đồng thời đề nghị các bên tranh chấp nghiêm túc chấp hành các quy định trong DOC và nhanh chóng kết thúc đàm phán COC. Đoàn Philippines khẳng định ủng hộ lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp và lên án một số hành vi vi phạm khác của Trung Quốc trong thời gian qua nhằm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông.
Theo Dantri
Các cuộc chiến pháp lý quốc tế về biển đảo - Kỳ 1
Trên thế giới có rất nhiều vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo trong đó các quốc gia liên quan lựa chọn hình thức giải quyết hòa bình là đưa nhau ra tòa án quốc tế, thay vì tranh giành bằng vũ lực. Một số vụ đã đạt được kết quả "ngọt ngào" khi hai bên cùng đạt được lợi ích về chủ quyền và kinh tế.
Một số vụ vẫn trong quá trình tố tụng, nhưng các bên vẫn thỏa mãn nuôi hy vọng, bởi ít ra họ không phải đau đầu và tốn nguồn lực cho các cuộc gây hấn, xung đột. Dưới đây là một số vụ kiện cáo liên quan đến chủ quyền biển đảo trên thế giới đã được giải quyết hoặc đang diễn ra.
Kỳ 1: Malaysia - Singapore: Đôi bên cùng thắng cuộc
Hai nước láng giềng Malaysia và Singapore đã vướng vào cuộc tranh chấp các đảo ở lối vào phía tây của eo biển Singapore từ năm 1979. Mãi đến năm 2008, cuộc tranh chấp mới được giải quyết tại Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ), một phán quyết mà cả hai nước cùng hài lòng. Vụ tranh chấp cũng cho thấy vai trò của ICJ quan trọng như thế nào trong giải quyết xung đột quốc tế.
Sơ đồ vị trí các hòn đảo tranh chấp giữa Malaysia và Singapore.
Cụm đảo tranh chấp gồm 3 hòn đảo chính có tên Pedra Branca (trước đó có tên là Pulau Batu Puteh và hiện giờ được Malaysia gọi là Batu Puteh), Middle Rocks và South Ledge. Điều đáng chú ý trong vụ này là Singapore và Malaysia từng là "người cùng nhà". Singapore giành được độc lập năm 1959, sau đó gia nhập Liên bang Malaysia, rồi lại tách ra. Khi là "người cùng nhà", các hòn đảo này không có người ở và không ai quan tâm đến chúng. Khi đã "ra ở riêng", từ năm 1979, Malaysia và Singapore đều đòi chủ quyền đối với ba hòn đảo trên.
Căng thẳng giữa hai nước lên đến đỉnh điểm ngày 21/12/1979 khi Cơ quan Bản đồ Quốc gia Malaysia phát hành một bản đồ mang tên "Ranh giới lãnh hải và thềm lục địa của Malaysia", trong đó đưa Pedra Branca vào trong lãnh hải của nước này. Singapore bác bỏ bản đồ này trong công hàm ngoại giao ngày 14/2/1980 và đề nghị Malaysia sửa bản đồ. Do không thể giải quyết tranh chấp qua trao đổi thư từ và đàm phán liên chính phủ trong năm 1993 và 1994, nên hai bên đã nhất trí đưa tranh chấp ra ICJ.
Sau khi nhận đơn kiện của Singapore năm 2003, ICJ đã ra phán quyết vào ngày 23/5/2008. Trong 16 thẩm phán, có 12 thẩm phán bỏ phiếu đồng ý rằng chủ quyền đảo Pedra Branca thuộc về Singapore. 15 thẩm phán nhất trí trao chủ quyền đảo Middle Rocks cho Malaysia và đảo South Ledge thuộc về quốc gia có vùng lãnh thổ trên biển bao trùm đảo này.
Ngọn hải đăng Horsburgh.
Trong phán quyết của mình, ICJ nhất trí với luận cứ của Malaysia rằng vương quốc Johor là nước đầu tiên có chủ quyền với đảo Pedra Branca, bác bỏ lý lẽ của Singapore khi tuyên bố đây là hòn đảo vô thừa nhận trong những năm 1840, cho đến khi Anh chiếm quyền sở hữu hợp pháp của hòn đảo để xây dựng một ngọn hải đăng. Johor đã là một nước có chủ quyền thuộc Đông Nam Á kể từ năm 1512 là một sự thật không tranh cãi. Do Pedra Branca luôn bị coi là một chướng ngại vật với tàu thuyền ở eo biển Singapore - tuyến đường giao thương quan trọng đông - tây giữa Ấn Độ Dương và Biển Đông, nên không thể có chuyện hòn đảo không bị người dân địa phương phát hiện. Do đó, đảo Pedra Branca nằm trong phạm vi địa lý chung của vương quốc Johor. Hơn nữa, trong quá trình tồn tại của vương quốc Johor, không có bằng chứng nào cho thấy có nước khác tuyên bố chủ quyền với các đảo ở eo biển Singapore. Kể cả khi người Anh xây ngọn hải đăng Horsburgh trên đảo Pedra Branca, ICJ vẫn cho rằng đảo thuộc chủ quyền của Johor, nay thuộc Malaysia.
Sau khi xác định được Pedra Branca thuộc Malaysia, ICJ tiếp tục xác định xem Malaysia tiếp tục duy trì chủ quyền với hòn đảo này hay là đã chuyển chủ quyền cho Singapore. Để xác định được điều này, ICJ đã nghiên cứu cuộc trao đổi thư từ năm 1953 giữa Thư ký thuộc địa ở Singapore và chính quyền Johor.
Cụ thể, ngày 12/6/1953, Thư ký thuộc địa Singapore đã viết thư cho viên cố vấn người Anh của Quốc vương Johor, hỏi thông tin về tình trạng của đảo Pedra Branca nhằm xác định ranh giới lãnh hải của thuộc địa. Trong bức thư phúc đáp đề ngày 21/9/1953, quyền Bộ trưởng Ngoại giao Johor trả lời rằng chính phủ Johor không tuyên bố chủ quyền của hòn đảo này.
ICJ cho rằng cuộc trao đổi thư từ kể trên đóng một vai trò trọng tâm để xác định quan điểm của hai bên trong tranh chấp chủ quyền với đảo Pedra Branca. Tòa kết luận rằng bức thư trả lời của chính quyền Johor cho thấy từ năm 1953, Johor coi rằng mình không có chủ quyền với hòn đảo.
Bước tiếp theo, ICJ xem xét cách ứng xử của các bên sau năm 1953 đối với hòn đảo. Tòa thấy rằng Singapore có bốn loại hoạt động thể hiện quyền làm chủ hòn đảo gồm: điều tra vụ đắm tàu diễn ra trong vùng biển quanh Pedra Branca; cấp phép cho quan chức Malaysia thăm hòn đảo và khảo sát vùng biển xung quanh; xây dựng thiết bị liên lạc quân sự trên đảo năm 1977; và đề xuất kế hoạch cải tạo mở rộng đảo. Tòa cũng lưu ý rằng Malaysia đã không phản ứng với hành xử của Singapore.
Do đó, ICJ phán quyết rằng đến năm 1980 - khi cuộc tranh chấp chủ quyền hòn đảo diễn ra căng thẳng cực điểm - thì chủ quyền hòn đảo Pedra Branca đã được chuyển cho Singapore từ trước đó rồi. Do đó, hòn đảo này thuộc về Singapore.
Về tranh chấp đảo Middle Rocks và South Ledge, ICJ nhận thấy rằng tình huống cụ thể khiến tòa quyết định trao đảo Pedra Branca cho Singapore không thể áp dụng với trường hợp đảo Middle Rocks. Do đó, chủ quyền Middle Rocks thuộc về Malaysia do nó từng thuộc về vương quốc Johor.
Còn đối với South Ledge, ICJ cho rằng nó nằm trong lãnh hải chồng lấn giữa Malaysia và Singapore. Do ICJ không có thẩm phân định đường ranh giới lãnh hải trong khu vực, nên ICJ chỉ phán quyết rằng South Ledge nằm trong lãnh hải của nước nào thì thuộc về nước đó.
Sau khi phán quyết của ICJ được công bố năm 2008, Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia Rais Yatim đã miêu tả quyết định của ICJ là khiến đôi bên cùng thắng cuộc và cam kết hai nước sẽ tiếp tục quan hệ song phương. Phó Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak coi phán quyết là quyết định cân bằng vì Malaysia cũng thành công một phần trong tuyên bố chủ quyền.
Trong khi đó, Phó Thủ tướng Singapore S. Jayakumar nói: "Chúng tôi hài lòng với phán quyết vì tòa án đã trao chủ quyền đảo Pedra Branca cho chúng tôi". Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long cũng hài lòng về kết quả vụ kiện và bình luận thêm rằng đưa tranh chấp ra ICJ là cách thức hiệu quả để Malaysia và Singapore vừa giải quyết được bất đồng vừa duy trì được mối quan hệ hữu hảo.
Pedra Branca là đảo granite nhỏ cách phía đông Singapore 46 km, và cách phía nam Johor (Malaysia) 14,3 km, nơi eo biển Singapore tiếp xúc với Biển Đông. Gần đảo này có đảo Middle Rocks cách phía nam Pedra Branca 1,1 km và South Ledge cách Pedra Branca 4,1 km về phía tây nam và chỉ nổi lên khi thủy triều xuống.
Đón đọc kỳ tới: Nicaragua - Colombia: Chiến thắng không thuộc về kẻ mạnh
Theo Thùy Dương
Báo tin tức
Hải quân Hàn Quốc bắn cảnh cáo tàu tuần tra Triều Tiên Một tàu hải quân Hàn Quốc đã phải bắn cảnh cáo sau khi hai tàu tuần tra bờ biển của Triều Tiên vượt qua ranh giới hải phận tranh chấp trên biển Hoàng Hải vào sáng nay (25/4). Sự việc này diễn ra đúng trước thời điểm Tổng thống Mỹ Barack Obama tới thăm Seoul trong 2 ngày (25 - 26/4). Trả lời...