Hội nghị Paris: Cánh cửa hòa bình đã hé mở
Lúc đầu mình đề ra hai yêu cầu, thứ nhất là Mỹ rút hết quân và rút vô điều kiện, thứ hai Mỹ phải xóa bỏ chính quyền tay sai. Dần dần mình rút lại từ “chính quyền tay sai” thành “chính quyền”. Bấy giờ chúng tôi hiểu là ở nhà, đặc biệt là đồng chí Lê Duẩn, mong muốn ký hiệp định.
Ta không bao giờ nhân nhượng chuyện Mỹ phải rút quân, còn việc với chính quyền Sài Gòn thì có thể có một hình thức nhân nhượng nào đó để ký được hiệp định. Mỹ rút thì tương quan lực lượng sẽ thay đổi rất nhiều. Vì thế tinh thần của việc chuẩn bị ký hiệp định là ở miền Nam sẽ tồn tại hai chính quyền song song, hai lực lượng quân đội và hai vùng kiểm soát. Chúng tôi được truyền đạt những điều đó ngay từ lúc đang chuẩn bị những văn bản cuối. Lúc bấy giờ chị Bình và các anh chị trong đoàn của Chính phủ cách mạng lâm thời buồn lắm. Chị Nguyễn Thị Chơn, sang thay chị Đỗ Duy Liên, nói rằng như vậy nghe không được. Bao nhiêu khẩu hiệu mình đòi đánh đổ chính phủ Sài Gòn, giờ mình giữ nó lại, hai bên vẫn phải ngồi bàn này khác… Nhưng về sau, khi bên nhà nói rõ được mục đích và ý tứ của mình thì chúng tôi thông suốt lắm, đến lúc ký không có chuyện tâm trạng buồn nữa, ký kết được hiệp định rất vui.
Ngoại trưởng Mỹ W.Rogers (ngồi thứ ba, từ trái sang) đang đặt bút ký Hiệp định Paris – Ảnh: R.L.Knudsen
Tuy thế, mấy hôm trước lễ ký thì bọn chúng tôi làm rất cực. Sau khi xong bản ký tắt của ông Lê Đức Thọ với ông Kissinger, hai bên phân công việc in văn bản. Việt Nam dân chủ cộng hòa in các văn bản bằng tiếng Việt, còn phía Mỹ in các văn bản bằng tiếng Anh. Và bản gốc bằng tiếng Việt và tiếng Anh, nhưng ngôn ngữ đàm phán là tiếng Pháp nên phải dịch ra tiếng Pháp, y như lúc thương lượng. Hôm 24 hay 25, chúng tôi qua nhà in nhỏ của một Việt kiều yêu nước, ông Trần Quang Khải. Mình in một hiệp định lớn mà trời ơi, văn bản lộn xộn đến mức có một số đoạn in bản tiếng Việt thì như thế này mà bản tiếng Pháp lại khác đi. Ví dụ, có văn bản ghi rõ tên bốn bên ký, nhưng có văn bản chỉ ghi Hoa Kỳ và các bên Việt Nam.
Cái bắt tay này đã kết thúc chuỗi mật đàm kéo dài ba năm giữa ông Lê Đức Thọ và H.Kissinger. Hai ông được trao giải Nobel hòa bình năm 1973, nhưng ông Lê Đức Thọ từ chối nhận giải – Ảnh: Getty Images
Video đang HOT
Tôi nhớ là lúc đầu chỉ phân công mấy anh ở bên đoàn miền Bắc làm chính, bên đoàn miền Nam chúng tôi có mấy người nhưng để đọc dò lại câu chữ thôi. Nhưng đến khi rối lung tung beng, ông Nguyễn Cơ Thạch và ông Phan Hiền phải kéo quân xuống nhà in. Bọn tôi mất hết ngày trời, sắp đưa ra ký chính thức rồi mà đêm đó văn bản vẫn còn chưa đâu vào đâu. Thậm chí Kissinger còn nói đùa với ông Nguyễn Cơ Thạch là nếu chúng ta không in được bản này thì cả tôi với ông “bay đầu” và chuyện sẽ phức tạp vô cùng.
Trao trả tù binh là công việc được thực thi ngay sau Hiệp định Paris. Trong ảnh: các chiến sĩ quân giải phóng khiêng một tù binh Mỹ bị thương đến điểm trao trả, tại Lộc Ninh 1973 – Ảnh: Herman Kokojan
Về sau chúng tôi nói “giờ nên giao lại cho một người có kinh nghiệm nhất đọc lại văn bản”, thế là giao cho anh Đặng Nghiêm Bái. Ông ấy tiếng Anh giỏi, tiếng Pháp giỏi và cả tiếng Việt cũng giỏi. Ông ngồi bình tĩnh làm, có khi mấy người cùng giúp ông chỗ này chỗ khác thì cuối cùng mới xong những văn bản này.
HÀ ĐĂNG (Thành viên đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN)
Ngày 20/1/1973, Nguyễn Văn Thiệu cử Vĩnh Lộc – trung tướng – cầm đầu phái đoàn quân sự Sài Gòn đi Paris. Ngày 21/1/1973, Trần Văn Lắm – tổng trưởng ngoại giao chính quyền Sài Gòn – “hấp tấp” bay tới Paris, chuẩn bị ký kết hiệp định.
Ngày 23/1/1973, tại cuộc mật đàm thứ 24 – cuộc mật đàm cuối cùng của tiến trình đàm phán về Việt Nam giữa cố vấn Lê Đức Thọ và tiến sĩ Henry Kissinger, kéo dài gần ba năm từ tháng 2/1970, hai bên đã hoàn thành và cùng ký tắt vào bản văn hiệp định.
11 giờ (giờ Paris), ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, đại lộ Kleber, Paris, đại diện bốn bên, gồm: Bộ trưởng ngoại giao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Nguyễn Duy Trinh; Bộ trưởng ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình; Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ William P. Rogers và Trần Văn Lắm – tổng trưởng ngoại giao chính quyền Sài Gòn, cùng ký kết vào hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, trước sự đón chào của hàng vạn người yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Hôm 23/1 phiên họp riêng cuối cùng, chỉ có ông Lê Đức Thọ, ông Xuân Thủy, Kissinger và một số người nữa, sau đó là lễ ký tắt hiệp định và trao bút cho nhau.
Mấy hôm trước, tôi đã cùng một anh trong đoàn đi ra phố mua cả hộp bút phớt. Tôi nhớ là lúc ký tắt thì cứ ký một văn bản xong lại thay bút, anh em chúng tôi giữ để còn đưa vào bảo tàng, đưa Bộ Ngoại giao, rồi giữ kỷ niệm. Tôi cũng từng giữ được một cây nhưng sau Lưu trữ trung ương lấy mất! Hôm ký tắt cười ra nước mắt. Phía Mỹ thì hiện đại, ký xong đóng dấu ngay, họ có một cái máy, gí vào chì là xong. Còn bên mình, có một ông mang cái xoong khuấy bột trẻ con đến, ông ấy lấy tờ tin, đốt ngay ở trong phòng hội nghị quốc tế để làm chảy xi ra, rồi mới đóng dấu được.
Tôi không dự lễ ký chính thức hôm 27/1 vì ngày 26 tôi theo đồng chí Lê Đức Thọ về Mạc Tư Khoa. Ngay tối hôm đó, Liên Xô tổ chức mittinh hoành tráng ở nhà Công đoàn, có các nhà lãnh đạo Liên Xô đến dự. Máy bay đưa ông Thọ về lại quay sang Paris đón ông Nguyễn Duy Trinh, rồi cả đoàn cùng về nhà. Đi qua Trung Quốc thì vào đúng tết ta.
Theo 24h
Căng thẳng Sài Gòn - Washington
Bỏ qua thái độ của chính quyền Thiệu, ngày 8/10/1972 phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa trao cho Hoa Kỳ bản đề nghị được trình bày dưới hình thức một hiệp định sẵn sàng để ký kết, có tên là "Hiệp định chấm dứt chiến tranh vãn hồi hòa bình tại Việt Nam".
Từ ngày 8 đến 11/10/1972, hai phái đoàn Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa thảo luận kỹ lưỡng về các điều khoản của hiệp định. Đến ngày 17/10 tại Paris, hai bên duyệt lại lần cuối và đi đến thống nhất lịch trình ký kết hiệp định.
Sài Gòn công kích Washington
Việc chỉ được biết thông tin về bản dự thảo và thời gian biểu cho việc ký kết hiệp định thông qua dư luận báo chí khiến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tỏ ra "bất phục" với Hoa Kỳ. Và "lo sợ" ký kết hiệp định với điều khoản quy định về cuộc tổng tuyển cử trong thời điểm phần đông dân chúng miền Nam Việt Nam đang hướng lòng theo cách mạng, sẽ đồng nghĩa với việc bị mất "chiếc ghế" tổng thống.
Do đó, trong thời gian từ ngày 26/10 đến 7/11/1972, ông Thiệu cấp tốc cử ba đại sứ đi đến 12 quốc gia ở châu Á nhằm rêu rao lập trường đối với bản dự thảo hiệp định, gián tiếp công kích Hoa Kỳ trước dư luận. Đồng thời ông ta liên tục gửi công hàm cho Hoa Kỳ, nói rõ rằng: "Những vấn đề cần phải giải quyết trong dự thảo hiệp định là những vấn đề căn bản chứ không phải là những vấn đề chi tiết hay ngôn ngữ như ông Kissinger đã tuyên bố" và đòi hỏi "Hoa Kỳ cho biết rõ về những gì Hoa Kỳ hứa hẹn với Bắc Việt theo như họ tiết lộ".
Trước phản ứng quá mạnh của chính quyền Sài Gòn, ngày 29/10/1972 tổng thống Nixon gửi thư cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhằm làm giảm bớt sự công kích nhưng không có hiệu quả, trong khi dư luận ngày càng tỏ ra phản ứng mạnh trước sự trì hoãn của Nixon. Hãng UPI cho rằng Việt Nam đã đưa quả bóng sang sân của Hoa Kỳ.
Tổng thống Thiệu (trái) và tổng thống Nixon vào thời điểm ấy đã không còn "mặn nồng" dù cùng nhìn về một hướng - Ảnh: Bettmann/Corbis
Hãng tin Pháp AFP nhận xét: Nixon đã bị dồn vào chân tường và buộc phải lựa chọn, hoặc ký sớm hiệp định, bỏ rơi Thiệu, hoặc tiếp tục chiến tranh. Còn các nhân vật đối lập trong Quốc hội Hoa Kỳ đòi Nixon phải có trách nhiệm ký hiệp định sớm, không thể để Thiệu muốn làm gì thì làm và họ cho rằng Nguyễn Văn Thiệu đang thách thức lòng tự trọng của nhân dân Hoa Kỳ. Vì vậy, ngày 2/11/1972, để xoa dịu dư luận, Nixon tuyên bố trên truyền hình bản dự thảo còn có những phần "mập mờ" "cần làm rõ trước khi ký kết bản hiệp định cuối cùng". Đồng thời để tỏ chứng minh Hoa Kỳ không "bỏ rơi" chính quyền Sài Gòn và việc ký kết hiệp định hoàn toàn nằm trong kế hoạch, Nixon ra lệnh cho máy bay chiến lược B-52 ném bom phía Bắc khu phi quân sự.
Lá thư răn đe của Nixon
Ngày 7/11/1972, vượt qua các chướng ngại, Richard Nixon tái đắc cử tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ 38. Ngay hôm sau, ngày 8/11/1972, Nixon gửi bức thư đầu tiên trong cương vị tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ răn đe Nguyễn Văn Thiệu và cũng để nói rõ kế hoạch của ông ta đối với việc ký kết Hiệp định Paris. Nội dung bức thư như sau:
"Hôm nay, sau cuộc tái đắc cử của tôi, tôi xin mở lại cuộc đối thoại giữa chúng ta về dự thảo hiệp định để chấm dứt chiến tranh.
Trước hết, tôi phải bày tỏ sự thất vọng sâu xa của tôi về cái mà tôi xem là một sự xa cách dần dần trong mối bang giao giữa hai quốc gia chúng ta, một khuynh hướng mà chỉ có hại cho những mục tiêu chung của chúng ta và có lợi cho kẻ thù. Việc tổng thống (Nguyễn Văn Thiệu - BT) liên tục bóp méo và công kích hiệp định là không đúng (unfair) và biểu lộ tinh thần chủ bại (self defeating). Những sự công kích này vẫn tiếp tục, mặc dù chúng tôi đã lưu ý nhiều lần, kể cả bức thư của tôi cho tổng thống vào ngày 29/10. Những sự công kích này đã làm cho tôi ngỡ ngàng và rất lúng túng.
Tuy nhiên, dù trong trường hợp nào, chúng tôi cũng quyết định đi tới trên căn bản của dự thảo hiệp định và những sự sửa đổi mà tướng Haig sẽ thảo luận với tổng thống và chúng tôi quyết định đạt được từ phía Bắc Việt.
Tôi xin tổng thống nói với đại tướng Haig liệu chúng tôi có thể xúc tiến một cách vững chắc trên căn bản này hay không. Chúng tôi đã đến chỗ mà chúng tôi cần phải biết một cách minh bạch liệu tổng thống có hợp tác với chúng tôi trong nỗ lực mà tướng Haig sẽ vạch ra những đường hướng chánh cho tổng thống, hay là chúng tôi phải nghĩ tới những phương thức hành động khác mà tôi tin rằng có thể sẽ tai hại cho quyền lợi hai quốc gia chúng ta".
Ngày 10/11/1972, tướng Haig sang Sài Gòn, tận tay chuyển thư của Nixon, cùng bản chương trình cam kết sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ đối với chính quyền Sài Gòn nhằm có thể đánh thắng được quân giải phóng sau khi ký kết hiệp định. Nhưng sự đảm bảo của Hoa Kỳ chưa xoa dịu được sự "lo sợ" của Nguyễn Văn Thiệu, đáp lại những lời lẽ vỗ về của Nixon trong bức thư là những đường gạch đỏ với các dấu chấm hỏi của Nguyễn Văn Thiệu. Đặc biệt là đối với câu: "Tôi tin chắc tổng thống đã đạt được một thắng lợi to lớn mà hiệp định này sẽ phê chuẩn", Nguyễn Văn Thiệu đã phê trực tiếp vào bức thư: "Cũng tùy có thắng thật hay là cứ nói là thắng". Đồng thời ông ta tiếp tục từ chối bản dự thảo hiệp định.
Ngày 11/11/1972, Nguyễn Văn Thiệu gửi thư cho tổng thống Nixon.
Bút tích "biên tập" của tổng thống Thiệu trên lá thư của Nixon
Phản hồi của tổng thống Thiệu
Trong thư, ông Thiệu viết:
"Tôi đã nhận được thơ của tổng thống đề ngày 8/11 do tướng Haig chuyển cho tôi.
Trước hết tôi xin nhân cơ hội này chuyển tới tổng thống một lần nữa những lời ngợi khen nồng nhiệt và thành khẩn của tôi về sự thắng cử vẻ vang của tổng thống vào ngày 7/11 vừa qua.
Chúng tôi sẽ mãi mãi biết ơn sâu xa sự trợ giúp dồi dào mà Hoa Kỳ đã dành cho Việt Nam cộng hòa... và nhất là đối với sự đoàn kết anh dũng của Hoa Kỳ sát cánh với chúng tôi trong cuộc chiến đấu.
Tôi ý thức được rằng dân tộc Hoa Kỳ đã mệt mỏi vì cuộc chiến dai dẳng này...
Nếu có một giải pháp cho phép Bắc Việt duy trì lực lượng của họ tại Nam Việt Nam, cuộc chiến đấu và những hi sinh của chúng ta trong bao nhiêu năm sẽ mất hết lý do. Những đồng minh của chúng ta sẽ được coi như là kẻ gây hấn, quân đội Nam Việt Nam trong trường hợp này sẽ ở trong vị trí của những kẻ đánh mướn, chiến đấu cho một chính nghĩa sai lầm, một chính nghĩa mà chúng tôi không còn dám nói lên.
Trong bối cảnh này, tôi nghĩ thật là bất công khi tôi bị lên án đã bóp méo dự án thỏa hiệp khi tôi kêu gọi sự lưu ý đến khía cạnh quan trọng này của vấn đề...
Tôi không thể trình bày dài dòng về tất cả các điểm trong khuôn khổ thơ này. Vì vậy, tôi đã nhờ tướng Haig chuyển tới tổng thống những quan điểm của chánh phủ chúng tôi có nhiều chi tiết hơn".
Ngày 12/11/1972, tướng Haig trở lại Washington báo cáo Nixon về chuyến công du Sài Gòn.
(Trích từ quyển Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, do NXB Chính Trị Quốc Gia phát hành tháng 12/2012)
Theo 24h
"Không đánh giỏi là... chết!" "Trước hết phải có lòng yêu nước, nhưng ở chiến trường, đánh giỏi là điều kiện tiên quyết để sống. Bộ đội ta đã làm được", PGS. TS Nguyễn Đình Lê nhấn mạnh khi nói về điều "chỉ Việt Nam làm được" qua chiến thắng Điện Biên Phủ trên không. PGS.TS Nguyễn Đình Lê hiện là Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Cận...