Hình ảnh bi tráng về trận đổ bộ Normandie 70 năm trước
Trận đổ bộ Normandie là một trong những bước ngoặt quan trọng nhất đánh dấu sự chấm dứt của chế độ Đức Quốc xã.
Ngày 6/6/1944 (hay còn gọi là Ngày D), cách đây đúng 70 năm, hàng trăm ngàn binh sĩ quân đội khối Đồng minh đã thực hiện một cuộc đổ bộ táo bạo quy mô lớn nhất trong thời kỳ Thế Chiến II vào các bãi biển vùng Normandie, đánh dấu một trong những bước ngoặt quan trọng của cuộc chiến tranh tàn khốc này.
Đây là cuộc tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử, với hơn 150.000 quân lính của Mỹ, Anh, Canada cùng với quân kháng chiến Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bỉ, Hà Lan, Na Uy, theo các chiến hạm lớn nhỏ từ miền nam nước Anh kéo vào bờ biển nước Pháp, đối mặt với hệ thống phòng thủ dày đặc của quân Đức Quốc Xã.
Lính Mỹ bắt đầu đổ bộ lên bờ biển Normadie dưới làn hỏa lực của súng máy Đức
Tướng Dwight D. Eisenhower dặn dò lính dù Anh: “Chỉ có thắng, không còn gì khác!”
Lính Canada đổ bộ vào bãi biển Juno tại Bernieres Sur Mer, Pháp trong Ngày D
Lính Mỹ bên trong một con tàu chuẩn bị đổ bộ lên bờ biển Normadie
Những người sống sót trên một chiếc tàu đổ bộ bị hỏa lực Đức bắn chìm tại bãi biển Utah
Sau một tháng chiến đấu quyết liệt, quân Đồng minh giành được lợi thế, đẩy được quân Đức ra khỏi các căn cứ quân sự tại Normandie. Normandie trở thành bàn đạp cho quân Đồng minh tiến về giải phóng thủ đô Paris của nước Pháp và sau đó là cả châu Âu, góp phần quan trọng vào việc chấm dứt Thế Chiến II.
Video đang HOT
Trong trận chiến này, dưới hỏa lực tấn công mạnh mẽ của quân Đồng minh, quân Đức bị tổn thất nặng nề và hứng chịu những đòn choáng váng. Sau những trận chiến đẫm máu trên bờ biển Normandie, 23.019 lính Đức thiệt mạng, 67.060 bị thương, 198.616 mất tích hay bị bắt làm tù binh.
Lính Mỹ nấp sau một bức tường sau khi đổ bộ vào bờ biển gần La Madeleine, Pháp
Đồng đội xếp 2 khẩu súng bắt chéo bên xác một lính Mỹ tử trận
Lính Mỹ thuộc trung đoàn 18 bị thương khi đổ bộ vào bãi biển Omaha
Lực lượng viện binh Mỹ đổ bộ vào bãi biển Omaha
Bia một của một người lính ngã xuống ngay cạnh hố pháo
Để đạt được chiến thắng vang dội này, lực lượng Đồng minh cũng đã phải hứng chịu thiệt hại nặng nề. Quân đội Mỹ gánh chịu thiệt hại lớn nhất về sinh mạng với hơn 29.000 lính Mỹ chết trận, 106.000 người bị thương hoặc mất tích. Kế đó là quân đội Anh với 11.000 tử sĩ, 54.000 lính bị thương hoặc mất tích.
Trận đổ bộ Normandie là một thảm họa thực sự đối với quân Đức khi quân Đồng minh đã chôn vùi 2/3 các sư đoàn thiết giáp của Đức Quốc Xã, khiến trùm phát xít Adolf Hitler bất ngờ và suy sụp.
Bãi biển Omaha sau khi quân Đức bị đánh bại
Tù binh Đức xếp hàng để được di chuyển bằng tàu tới Anh
Lính Mỹ đứng cạnh một lô cốt của quân Đức bị phá hủy
Quân chi viện Mỹ đi qua một lô cốt trên bờ biển Normandie
Lính Mỹ canh gác tù binh Đức tại một trại tù binh ở Nonant-le-Pin, Pháp
Chiến thắng bước ngoặt của quân Đồng minh tại Normandie được xem là thành quả của kế hoạch đồ sộ do các nhà lãnh đạo chính trị cùng với hàng triệu người lính Đồng minh vạch ra và thực hiện, và cũng được xem là thành tựu lớn nhất của khối Đồng Minh trong cuộc chiến.
Thắng lợi ấy cũng góp phần khiến cho quân đội Đức ở Tây Âu trở nên kiệt quệ về tinh thần và sức lực, dẫn tới sự diệt vong của phát xít Đức không lâu sau đó.
Theo Khampha
Những "quả bom sốt rét" của Đức Quốc xã
Vũ khí sinh học xuất hiện từ thời cổ đại, với việc dùng sinh vật mang mầm bệnh và các loại chất độc tự nhiên để chống lại kẻ thù. Đến Chiến tranh Thế giới thứ hai, cả quân đồng minh và Nhật Bản đều có những chương trình nghiên cứu, sản xuất các loại vi khuẩn để sử dụng như vũ khí sinh học.
Trưởng Đội cận vệ Đức Quốc xã Heinrich Himmler có vẻ là người đã ra lệnh nghiên cứu chương trình vũ khí sinh học liên quan đến muỗi mang mầm bệnh sốt rét.
Theo kết quả nghiên cứu của chuyên gia sinh học Klaus Reihardt thuộc trường đại học Tubingen (Đức) đăng tải trên tạp chí khoa học Endeavour số ra tháng 12/2013, trong đó cung cấp các dữ liệu được phát hiện gần đây tại trại tập trung Dachau, thì có vẻ đúng như những nghi ngờ lâu nay cho rằng: Không chỉ quân đồng minh và Nhật Bản mà cả Đức Quốc xã cũng đã có một chương trình nghiên cứu vũ khí sinh học để tấn công kẻ thù.
Mặc dù sự thật là trong chiến tranh, Aldolf Hitler đã ban hành sắc lệnh cấm các loại vũ khí sinh học nhưng nhiều thập kỉ qua, các nhà khoa học vẫn tranh luận về việc liệu có hay không một chương trình nghiên cứu vũ khí sinh học được Đức Quốc xã bí mật tiến hành. Bởi trên thực tế có một nghịch lý nguy hiểm là, hoạt động nghiên cứu phòng tránh và chế tạo vũ khí sinh học thoạt trông rất giống nhau và đôi khi chính việc nghiên cứu phòng tránh lại dẫn đến việc tạo ra vũ khí sinh học.
Ông Reinhardt nhận định Đức Quốc xã thật sự đã tiến hành nghiên cứu vũ khí sinh học dưới lớp vỏ bọc Viện côn trùng tại trại tập trung Dachau do chuyên gia côn trùng học Eduard May đứng đầu. Reinhardt cho rằng "May biết là ông ta đang nghiên cứu vũ khí tấn công".
Trên tờ Endeavour, Reinhadt viện dẫn những báo cáo do May ghi chép được chính phủ Đức lưu trữ, trong đó May gọi một giống muỗi mang mầm bệnh sốt rét là phù hợp nhất cho việc thả "bản án hành quyết" từ không trung. Nghiên cứu đã được tiến hành tại Viện côn trùng Dachau để kiểm tra liệu những con muỗi này có thể sống sót trong bao lâu trên máy bay. Kết quả cho thấy muỗi Anophen mang mầm bệnh sốt rét có khả năng sống lâu hơn nhiều so với các loại muỗi khác trong tình trạng đói. Tuy nhiên, trong điều kiện mùa đông giá rét và thiếu những đầm lầy ẩm thấp tại Đức, những con muỗi mang mầm bệnh sốt rét lại không có khả năng sống sót.
Các chuyên gia lâu nay vẫn tranh luận về "đội quân muỗi sốt rét" của Đức Quốc xã.
Trong khi đó, nhà sử học Frank Snowden của trường đại học Yale (Mỹ) lại khẳng định Đức Quốc xã thật sự đã đưa muỗi mang mầm bệnh sốt rét vào khu vực phía nam thành phố Rome (Italy) năm 1943, dựa vào các ghi chép của quân đồng minh và Italy.
Bản thân ông Reinhardt cũng thừa nhận rất khó để có thể chứng minh Đức Quốc xã đã lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh sinh học, đặc biệt là trong bối cảnh tình trạng hỗn loạn ở Đức vào cuối cuộc chiến. Theo Reinhart, với sự tháo chạy của quân đội Đức Quốc xã, sự kiểm soát của quân đồng minh và việc nước Mỹ tham gia vào cuộc thí nghiệm tương tự (trong đó có hợp tác một số nhà nghiên cứu thời Đức Quốc xã) sau chiến tranh, thì bất kì bằng chứng nào còn tồn tại đến giờ cũng khó có thể được sử dụng để đưa ra kết luận.
Ngoài ra, trong bản nghiên cứu của mình, Reinhardt đã đặt ra câu hỏi "Tại sao đội cận vệ Đức Quốc xã lại cần một viện nghiên cứu côn trùng?". Câu trả lời mà ông đưa ra là... những con chấy. Lật lại lịch sử, trên Mặt trận phía đông, loài kí sinh trùng mang theo bệnh sốt phát ban này đã gây thiệt hại cho cả lực lượng cận vệ Đức Quốc xã và các tù nhân. Reinhardt cho biết năm 1942, May đã đề nghị nghiên cứu về loài chấy, muỗi mang mầm bệnh sốt rét và ruồi nhà. Phần lớn các nghiên cứu tại Dachau là nhằm tiêu diệt những loài côn trùng gây hại, nhưng theo Reinhardt, một vài nghiên cứu trong số đó "rõ ràng có liên quan đến chiến tranh".
Tuy nhiên, Giáo sư Gregory Koblentz thuộc chương trình phòng vệ sinh học của trường đại học George Mason (Mỹ) lại là một trong số những người cho rằng chương trình nghiên cứu ở trại tập trung Dachau không mang bản chất tấn công. "Những cuộc nghiên cứu tại đây chỉ nhằm đánh giá mối đe dọa từ các tác nhân và các loại côn trùng. Đặc biệt khó để phân loại nghiên cứu của May về muỗi và bệnh sốt rét là nhằm mục đích tấn công hay phòng vệ. Ngay cả khi nếu chủ đích của May là tấn công, thì đây cũng là bước nghiên cứu sơ bộ, cách xa việc thật sự tạo ra được một loại côn trùng là vũ khí sinh học", Giáo sư Koblentz nói.
Cùng chung quan điểm với Giáo sư Koblentz, cho đến nay, một số nhà sử học cũng kết luận rằng viện nghiên cứu ở Dachau về bản chất là nhằm phục vụ mục đích tự vệ. "Bất kì chương trình tấn công bằng vũ khí sinh học nào cũng bị cấm theo lệnh của Hilter về chống phát triển chiến tranh sinh học", báo cáo năm 1999 của sử gia Erhard Geissler viết.
Đối với những kết quả mà Reinhardt đưa ra, nhiều chuyên gia cho rằng thay vì mang lại lời giải, chúng lại làm nối dài thêm các cuộc tranh luận về kế hoạch chiến tranh sinh học của Đức Quốc xã. Và những nghiên cứu mà Đức Quốc xã tiến hành tại trại tập trung Dachau nhằm mục đích phòng vệ hay tấn công vẫn tiếp tục là một câu hỏi hóc búa mà lịch sử để lại.
Theo Báo Tin tức
Đổ bộ Normandy thành công vì quân Đức chủ quan thời tiết? Theo tờ Business Insider, các lãnh đạo quân đội Đức đã nghĩ rằng quân Đồng minh sẽ đổ bộ vào cuối tháng 5/1944, khi thủy triều dâng cao, trong đêm trăng tròn, sáng tỏ, và ít gió. Ảnh trái: bản đồ thời tiết trong ba ngày 1-2-3/6/1944. Ảnh phải: bản đồ thời tiết ngày 4/6 và 6/6/1944. Ảnh trái: bản đồ thời tiết...