Hiệu quả từ mô hình cánh đồng lớn
Tại Ninh Thuận, sản xuất nông nghiệp theo mô hình cánh đồng lớn đang được nhiều địa phương tích cực triển khai bởi những ưu thế như ứng dụng đồng bộ tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất và liên kết với doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm đầu ra cho nông sản.
Ông Trần Thái Truyện trồng giống nho NH 01-152 liên kết theo mô hình cánh đồng lớn với Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Thái An (xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải).
Mở rộng cánh đồng lớn
Gia đình ông Trần Thái Truyện, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải trồng giống nho đỏ Red Cardinal theo kiểu truyền thống. Những năm trước, đến vụ thu hoạch, ông Truyện luôn phải tất tả tìm thương lái thu mua. Nhiều lúc, thương lái viện vào chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ khó khăn để ép giá nên hiệu quả sản xuất thấp.
Ông Truyện cho hay, năm 2018 được địa phương và Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Thái An vận động liên kết sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn, gia đình chuyển sang trồng 2.000 m2 giống nho mới NH 01-152 theo tiêu chuẩn VietGAP. Được hợp tác xã hỗ trợ giống, kỹ thuật trồng, chăm sóc, ứng dụng tưới nước tiết kiệm, bao chùm quả nho và hỗ trợ bao tiêu sản phẩm nên hiệu quả kinh tế mang lại rõ rệt.
Đây là giống nho có nhiều ưu điểm nổi bật như quả to, trọng lượng đạt từ 0,5 – 1,5 kg/chùm, vỏ dày, thịt chắc, giòn, độ ngọt vừa phải, có vị thơm nhẹ đặc trưng. Đặc biệt khi quả chín có màu đỏ vang rất đẹp nên thị trường rất ưa chuộng. Giống nho này cho năng suất từ 1 – 1,2 tấn/sào/vụ, thu hoạch 2 vụ mỗi năm.
Trong điều kiện sản xuất bình thường, nho tươi bán giá 100.000 – 120.000 đồng/kg. Do ảnh hưởng dịch COVID-19, hiện sản phẩm bán với giá 80.000 – 90.000 đồng/kg, song vẫn cao hơn 4 – 5 lần so với các giống nho truyền thống. Sau khi trừ chi phí đầu tư gia đình còn lãi trên 50 triệu đồng/sào/vụ – ông Truyện chia sẻ.
Ông Nguyễn Khắc Phòng – Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Thái An cho biết, hợp tác xã hiện có 64 thành viên tham gia liên kết sản xuất nho theo mô hình cánh đồng lớn với diện tích gần 30 ha; trong đó, khoảng 7 ha trồng giống nho mới NH 01-152. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, hợp tác xã có nhiều phương án, dịch vụ cung cấp vật tư nông nghiệp, chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất để hỗ trợ tối đa cho thành viên.
Cụ thể, hợp tác xã hỗ trợ cho nông dân toàn bộ giống cây, hỗ trợ lắp đặt ống tưới nước tiết kiệm. Hơp tác xã ký hợp đồng trực tiếp với công ty phân bón, thuốc bảo vệ thực vật uy tín để đạt được giá tốt nhất cung ứng cho các thành viên. Để bao tiêu sản phẩm, hợp tác xã có phương án mua bán riêng với các thành viên bằng hợp đồng, giới thiệu cơ sở thu mua uy tín để đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm. Hiện nay, hợp tác xã đang vận động các thành viên tiếp tục nhân rộng diện tích trồng giống nho NH 01-152 kết hợp du lịch sinh thái, tạo chuỗi giá trị gia tăng, nâng cao thu nhập cho thành viên.
Triển khai mô hình cánh đồng lớn, nông dân tích cực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Tiêu biểu như mô hình cánh đồng lớn sản xuất lúa ở xã Phước Chính, huyện Bác Ái đã giúp đồng bào Raglai thay đổi tập quán canh tác bằng việc dồn điền, đổi thửa, đưa cơ giới hóa vào sản xuất từ lúc xuống giống đến khi thu hoạch và bao tiêu sản phẩm.
Bà Patau Asah Thị Dém, Bí thư Đảng ủy xã Phước Chính, huyện Bác Ái cho biết, năm 2020, UBND huyện Bác Ái triển khai Đề án xây dựng cánh đồng lớn sản xuất lúa tại xã Phước Chính. Đến nay đã sản xuất được 3 vụ, hiệu quả bước đầu mang lại rất khả quan.
Từ 11 hộ tham gia với diện tích 4,6 ha ban đầu, đến thời điểm hiện tại đã tăng lên 56 hộ với diện tích gần 24 ha, năng suất bình quân đạt 5,5-6 tấn/ha, cao gấp 1,5 lần so với canh tác lúa truyền thống. Sản phẩm được hợp tác xã trên địa bàn bao tiêu thu mua nên bà con yên tâm sản xuất.
Video đang HOT
Mô hình sản xuất lúa theo cánh đồng mẫu lớn không chỉ giúp đồng bào Raglai thay đổi tập quán sản xuất mà còn góp phần giúp địa phương nâng cao tiêu chí thu nhập trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã triển khai 27 cánh đồng lớn với tổng diện tích gần 3.600ha, đạt 90,18% kế hoạch; trong đó, triển khai mới 3 cánh đồng lớn sản xuất lúa với diện tích 250 ha; duy trì 24 cánh đồng lớn gồm 20 cánh đồng lúa với tổng diện tích trên 3.160 ha và 2 cánh đồng lớn trồng măng tây với diện tích 55 ha cùng 1 cánh đồng nho 29,92 ha và 1 cánh đồng trồng ngô giống diện tích 80 ha.
Thúc đẩy phát triển bền vững
Mô hình cánh đồng lớn trồng nho của Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Thái An (xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải).
Theo đánh giá, mô hình cánh đồng lớn tạo sự liên kết giữa các hộ dân với các hợp tác xã, doanh nghiệp tham gia đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, ứng dụng khoa học và kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, hiệu quả kinh tế cuối cùng trên cùng một đơn vị diện tích cao hơn so với phương pháp canh tác truyền thống.
Cụ thể, đối với cánh đồng lúa, khâu làm phẳng mặt ruộng bằng máy đạt 100%, năng suất cao hơn 10-20% so với sản xuất riêng lẻ từng hộ, giá bán cao hơn giá thị trường tại thời điểm từ 50-200 đồng/kg. Theo mô hình này, nông dân tiết kiệm được chi phí sản xuất từ 5-10%, trong khi lợi nhuận tăng từ 15-30% so với sản xuất đại trà.
Với cây ngô, sau khi trừ chi phí, nông dân thu lãi 34-35 triệu đồng/ha, cao hơn sản xuất theo phương thức truyền thống khoảng 20 triệu đồng/ha. Các cánh đồng lớn trồng nho, đặc biệt măng tây xanh cũng cho lợi nhuận cao, giúp nông dân có thu nhập ổn định, yên tâm tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất.
Cánh đồng lớn cũng đã tạo ra bước đột phá thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Đến nay, Ninh Thuận đã thực hiện 27 liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản; trong đó có 23 liên kết lúa, 2 liên kết măng tây xanh, 1 liên kết ngô giống và 1 liên kết sản xuất nho.
Bên cạnh kết quả đạt được, quá trình thực hiện mô hình cánh đồng lớn cũng gặp những khó khăn như tình trạng hạn hán, biến đổi khí hậu, tác động của đại dịch COVID-19 khiến đầu ra một số sản phẩm nông nghiệp thiếu tính ổn định, giá cả sụt giảm; trong khi đó, giá phân bón và các loại vật tư nông nghiệp tăng, ảnh hưởng đến lợi nhuận thu về của người nông dân.
Tuy nhiên, tại Ninh Thuận, quy mô và hiệu quả của mô hình cánh đồng lớn vẫn còn chưa tương xứng so với mục tiêu đề ra vì hầu hết ruộng đồng trên địa bàn đều nhỏ. Một bộ phận nông dân canh tác theo kiểu manh mún, tự phát, chưa tuân thủ quy trình kỹ thuật hướng dẫn. Người dân tham gia vẫn chưa tuân thủ hợp đồng bán ra ngoài gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện bao tiêu sản phẩm.
Ngoài ra, các hợp tác xã thiếu vốn, năng lực hoạt động hạn chế, chưa phát huy hết vai trò trong đầu tư liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm… Đây là những rào cản ảnh hưởng đến tiến trình thực hiện mô hình cánh đồng lớn cần sớm được tháo gỡ.
Theo ông Đặng Kim Cương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, thời gian qua, việc sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn gắn với tiêu thụ sản phẩm, áp dụng khoa học – kỹ thuật, cơ giới hóa đã từng bước khắc phục được những ảnh hưởng bất lợi của thời tiết, tranh thủ được thời vụ, giải quyết tình trạng thiếu lao động nông nghiệp và giảm giá thành, chi phí đầu tư và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Để thúc đẩy hình thành, phát triển mô hình cánh đồng lớn hiệu quả, Ninh Thuận khuyến khích tích tụ ruộng đất, hình thành mô hình cánh đồng lớn theo hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất hoặc góp đất liên kết sản xuất. Tại mô hình cánh đồng lớn, tập trung chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng chất lượng cao, có lợi thế cạnh tranh trên thị trường để định hướng phát triển sản xuất hợp lý.
Thời gian tới, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh xây dựng mô hình cánh đồng lớn gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, phát triển hệ thống thủy lợi, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế liên kết “4 nhà”, triển khai chính sách tín dụng về nông nghiệp, nông thôn để hỗ trợ nông dân liên kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Tỉnh ưu tiên mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP, nông nghiệp hữu cơ để tăng hiệu quả kinh tế trên cùng đơn vị diện tích canh tác.
Đồng bằng sông Cửu Long có sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Sáng 26/10, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị Tổng kết Nghị quyết 21-NQ/TW, Kết luận số 28-KL/TW về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời kỳ năm 2011-2020.
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Triển khai Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/10/2003 của Bộ Chính trị khóa IX (Nghị quyết 21) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2001-2010; kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2011-2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giá trị sản xuất.
Phát triển nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của vùng ĐBSCL. Tạo mới liên kết chặt chẽ giữa nông dân, ngư dân với các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Theo ông Nguyễn Tất Đại, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, nông nghiệp vùng ĐBSCL đã có sự liên tục tăng trưởng với tốc độ cao nhờ khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, đưa ĐBSCL thành vùng nông nghiệp chiến lược của Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Trong giai đoạn 2004-2020, nông nghiệp ĐBSCL đóng góp trung bình 33,54% GDP nông nghiệp cả nước và 30% GDP chung của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP nông nghiệp ĐBSCL giai đoạn 2004-2020 đạt 4,6% cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước (3,76%).
ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về sản lượng gạo, tôm nước lợ, cá tra và trái cây, với 24,51 triệu tấn gạo, chiếm 56% tổng sản lượng của cả nước; 671,7 nghìn tấn tôm, chiếm 83,51%; 1,41 triệu tấn cá tra, chiếm 98% và 4,3 triệu tấn trái cây, chiếm 60%.
Trong những năm qua, Đảng, Chính phủ đã dành mối quan tâm to lớn cho công tác phát triển thuỷ lợi phục vụ cấp nước, tiêu nước, kiểm soát lũ, ngăn mặn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ đó, hạ tầng thủy lợi; hạ tầng phòng, chống thiên tai; hạ tầng cấp nước... được đầu tư khá lớn. Các hệ thống cơ sở hạ tầng đã góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của người dân.
Đến hết năm 2020, vùng ĐBSCL đã có 60,8% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 2 địa phương là thành phố Cần Thơ, tỉnh Bạc Liêu đã có 100% số xã đạt chuẩn; có 31 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Về quy hoạch phát triển nông nghiệp của vùng, cây trồng, vật nuôi được quy hoạch phù hợp điều kiện đất đai, khí hậu điều kiện xã hội là nhằm xây dựng nền nông nghiệp của vùng phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh. Các lĩnh vực được áp dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, các bộ, ngành, địa phương đã có những giải pháp quyết liệt triển khai, dành nhiều hơn nguồn vốn của Nhà nước để tập trung đầu tư cho những dự án, công trình hạ tầng cấp bách, thiết yếu hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Riêng về phát triển giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, ĐBSCL đang phát triển 3 sản phẩm nông nghiệp chính là lúa gạo, cây ăn quả và thủy sản (cá tra, tôm nước lợ), phấn đấu đến năm 2025, xác định được bộ giống tốt nhất cho 3 ngành hàng chủ lực này.
Với việc chuyển đổi sản xuất nông nghiệp vùng theo thứ tự ưu tiên là thủy sản - cây ăn quả - lúa gạo, ông Trần Công Khôi, Phó Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản cho biết, cơ cấu sản xuất thuỷ sản chuyển biến theo hướng tích cực là tăng tỷ trọng nuôi trồng và giảm tỷ trọng khai thác. Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, thành một ngành sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao, làm thay đổi cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản vùng ĐBSCL tăng bình quân là 2,6%/năm. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản cũng tăng bình quân 9 %/năm, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân về sản lượng của cả nước. Cùng với đó, vùng có ngành ông nghiệp chế biến thủy sản đã phát triển nhanh, hình thành một số doanh nghiệp quy mô lớn có tính dẫn dắt định hướng cho chuỗi sản xuất.
Tuy nhiên, theo ông Trần Công Khôi, cơ chế chính sách thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế, doanh nghiệp vào phát triển thủy vùng ĐBSCL còn nhiều bất cập, hạn chế, thiếu và không đồng bộ. Chưa xây dựng được các mô hình liên kết đầu tư như hợp tác công tư, đầu tư mồi,... do đó chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào phát triển thủy sản.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam phát biểu. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam, nông nghiệp vùng ĐBSCL đã có những thành tựu vượt bậc. ĐBSCL đóng góp tỷ lệ lớn vào GDP nông nghiệp cả nước, thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu. Thu nhập trên mỗi ha đất sản xuất nông nghiệp không ngừng tăng lên.
Các sản phẩm lúa gạo, trái cây, thủy sản của vùng đã xuất khẩu đi hàng loạt các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc... Chăn nuôi gia súc gia cầm cũng được chuyển dịch theo hướng từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại áp dụng khoa học kỹ thuật, tăng hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên, quá trình phát triển đang chậm lại so với nhiều vùng khác. Lĩnh vực nông nghiệp vốn có lợi thế nhưng chưa phát huy hết tiềm năng. Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, muốn phát triển ĐBSCL cả về nông thôn mới, môi trường... thì cần phát triển kinh tế.
Với phát triển nông nghiệp, vùng cần tổ chức sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai. Đổi mới chính sách đất đai, cho phép xây dựng cơ chế đặc thù để thúc đẩy chuyển đổi, tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Các chính sách ỗ trợ người dân trong quá trình chuyển đổi đất lúa.
Chính sách tín dụng cần được đẩy mạnh theo chuỗi giá trị cho hộ nông dân, tổ chức kinh tế tập thể, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, nhất là theo ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường; phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ logistics hỗ trợ nông nghiệp.
Cùng với nguồn ưu tiên từ ngân sách Trung ương, vùng cần thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công - tư đối với việc xây dựng hạ tầng; đặc biệt là hạ tầng cho phát triển chế biến sản phẩm, vùng chuyên canh chủ lực. Ưu tiên thu hút đầu tư các doanh nghiệp tại các vùng lõi của vùng chuyên canh chủ lực. Thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, hợp tác xã, cộng đồng đầu tư vào các sản phẩm đặc sản theo mô hình OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm) gắn với phát triển du lịch, đặc biệt tại các vùng linh hoạt.
Tại hội nghị, các đại biểu đều đề nghị Bộ Chính trị tiếp tục có Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL cho giai đoạn tiếp theo hướng phát triển thích ứng với biến đổi khí hậu, làm cơ sở để Chính phủ, Thủ tướng chính phủ và các bộ, ngành, địa phương thực hiện.
Trồng nho - hướng đi mới cho nông dân Bắc Ninh Quả nho có đặc tính vỏ mỏng, vị thanh ngọt, giòn, chất lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt có hương thơm cuốn hút, Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao Liêm Anh, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã chuyển từ trồng rau sang trồng nho. Đến nay, sản phẩm đã dần có chỗ đứng trên thị trường. Vườn...