Hiệp định Paris, nhìn từ người Mỹ phản chiến
Jerry Elmer, người Mỹ phản chiến nổi tiếng thế giới và là tác giả cuốn “Tội phạm vì hòa bình” kể vể bầu không khí cực kỳ căng thẳng ở Mỹ những ngày trước khi Hiệp định Paris được ký kết.
Elmer là nghiên cứu viên thuộc Quỹ Hòa giải của Mỹ, thành lập từ năm 1915 với mục tiêu hành động vì hòa bình, công lý và phi bạo lực. Cuốn sách “Tội phạm vì hòa bình” của ông được nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 2005, và tái bản lần thứ ba vào tháng 1/2013, nhân kỷ niệm 40 năm ngày Hiệp định Paris được ký kết
Cuộc chạy đua vào chiếc ghế tổng thống năm 1972 diễn ra giữa ứng cử viên chủ trương hoà bình, thượng nghị sĩ George McGovern, và đương kim tổng thống Richard Nixon, người đã duy trì và leo thang cuộc chiến tại Việt Nam trong 4 năm tại nhiệm.
Ngày 30/4/1970, Mỹ xâm lược Campuchia. Tháng 2/1971, Mỹ tấn công Lào. Cuộc đàm phán nhằm kết thúc chiến tranh ở bán đảo Đông Dương, bắt đầu từ tháng 5/1968, đã qua hàng trăm phiên kín và công khai, vẫn tiếp tục tại Paris nhưng có vẻ chưa đi đến đâu.
Chiều ngày thứ năm 26/10, 11 ngày trước cuộc bầu cử, Henry Kissinger, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ khi đó, (sau là Ngoại trưởng Mỹ) tổ chức cuộc họp báo tại Nhà Trắng tuyên bố một tin chấn động về cuộc đàm phán hòa bình. “Hòa bình trong tầm tay” , Kissinger tuyên bố. Ngày hôm sau, những từ này thành tiêu đề cho mọi trang nhất của các tờ báo của Mỹ: “Hòa bình trong tầm tay”.
Tuyên bố đầy bất ngờ của Kissinger sau đó trở thành cảm hứng cho một “thành ngữ”, vẫn được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống ngày nay ở Mỹ – “bất ngờ tháng 10″. Bất ngờ tháng 10 là tuyên bố đột ngột về một tin tức hết sức tốt lành, xuất hiện ngay trước cuộc bầu cử. Tin này không sai, chỉ có điều nó bao hàm dụng ý khi được công bố vào thời điểm chiến lược ngay trước cuộc bầu cử.
Thực tế, Kissinger không nói dối. Một tuần trước đó, ngày 20/10, Kissinger và người đàm phán của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Lê Đức Thọ đã hoàn tất thỏa thuận về việc chấm dứt sự tham gia trực tiếp của quân đội Mỹ tại Việt Nam, thực hiện lệnh ngừng bắn và trao trả tất cả tù nhân chiến tranh của cả hai bên.
Trong những tháng trước cuộc bầu cử, để đáp lại những cuộc biểu tình đòi hỏi hòa bình từ bên trong Mỹ, ít nhất 35 dự án luật về nội dung chống chiến tranh được đệ trình lên quốc hội Mỹ. Một số chỉ là những nghị quyết không ràng buộc, nhưng một số khác mang tính quyết định khi cắt kinh phí cho chiến tranh. Ví dụ ngày 24/7, Thượng nghị viện đã phê chuẩn Phụ lục Cooper-Brooke thi hành việc rút hoàn toàn quân khỏi Việt Nam để đổi lấy việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phóng thích các tù binh chiến tranh.
Video đang HOT
Trong cuộc họp với Tổng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ vào mùa thu, Nixon xem xét đến tinh thần phản đối chiến tranh đang dâng cao trong Thượng viện, và nói: “Mỹ đã đi trước một bước, chỉ còn thiếu việc cắt giảm ngân sách”.
Ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger tại Paris năm 1973. Ảnh: AFP
Bận rộn với tình hình chính trị trong nước, Nixon và Kissinger đã không thông báo cho đồng minh của mình ở Việt Nam – chính quyền Sài Gòn và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, về thỏa thuận đạt được giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Vì vậy, cấp phó của Kissinger, tướng Alexander Haig, được phái đi Sài Gòn để xoa dịu Thiệu và thuyết phục Thiệu ủng hộ thỏa thuận này. Nhưng hẳn nhiên là Thiệu nhận ra chính quyền của ông ta, vốn đã không được lòng dân nay lại không được sự hỗ trợ quân sự của Mỹ, thì sẽ sụp đổ. Thiệu không đồng tình với thỏa thuận ngày 20/10 và đưa cho Haig một danh sách dài những phản đối cụ thể của mình.
Kết quả là đến ngày 20/11, lần gặp tiếp theo của Kissinger và ông Lê Đức Thọ tại Paris, Kissinger yêu cầu thay đổi 69 điểm trong văn bản ngày 20/10, nhằm xoa dịu Thiệu. Lập trường của Mỹ là hoàn toàn không hợp lý, chính Kissinger thừa nhận việc này trong cuốn hồi ký “Những năm tháng ở Nhà Trắng”, trang 1459.
Đoàn đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tất nhiên là tức giận với hành động của chính quyền Nixon: thống nhất về một hiệp ước hòa bình hoàn chỉnh vào ngày 20/10 để rồi thất hứa chỉ trong một tháng sau đó. Ngày 24/11, tại Paris, Kissinger và Haig đe dọa đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về một cuộc leo thang chiến tranh nếu đoàn không đồng ý với những thay đổi.
Đến ngày 16/12, đàm phán hoàn toàn thất bại và ngày 18/12, Mỹ bắt đầu chiến dịch ném bom hai thành phố đông dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng.
Trong 12 ngày đêm ném bom, 200 máy bay B-52 đã bay hơn 700 chuyến và các máy bay chiến đấu, máy bay ném bom nhỏ hơn đã bay hơn 1.200 chuyến bổ sung. Những máy bay này thả xuống 20.000 tấn bom. B-52 rải thảm hai thành phố, san bằng mọi thứ trên mặt đất. Xét trên cả ba khía cạnh pháp luật, đạo đức và thực tiến, việc ném bom hai thành phố kể trên đều là bất hợp pháp. Đánh bom dân thường là vi phạm luật quốc tế và là tội ác chống lại loài người.
Ngoài ra, phong trào vì hòa bình nổi lên mạnh mẽ sau vụ ném bom Giáng sinh và các cuộc biểu tình nổ ra khắp đất nước Mỹ cũng như tại các nước khác.
Quốc hội Mỹ nhanh chóng có những hồi đáp với phong trào hòa bình. Ngày 2/1/1973, Hạ viện quyết định cắt kinh phí cho cuộc chiến và ngày 4/1, Thượng viện cũng ra quyết định tương tự. Nixon và Kissinger lâm vào tình cảnh không mong muốn.
Tuy nhiên, các quan chức Mỹ lập luận rằng cần phải có những hành động mạnh mẽ mới có hòa bình, rằng chính cuộc đánh bom đã xúc tiến sự ký kết Hiệp định Paris. Cuối tháng 1/1973, trong bản ghi nhớ bí mật của tổng thống Nixon cho tổng tham mưu trưởng liên quân khi đó là Bob Haldeman, Nixon viết: “Chỉ có hành động cứng rắn mà chúng ta đã thực hiện hồi tháng 12 mới có thể thuyết phục đối phương, và chúng ta không lâm vào cảnh phải nhượng bộ Quốc hội hơn nữa”
Nhưng quan điểm này thực ra không đúng với sự thật. Trên thực tế, các điều khoản và quy định định trong Hiệp định Paris ký ngày 27/1/1973 là hoàn toàn trùng khớp với bản thỏa thuận 20/10/1972.
Người dân Mỹ tổ chức nhiều cuộc biểu tình trong những năm 1970 để phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Biểu ngữ của người biểu tình viết: “Chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và Đông Dương ngay bây giờ”. Ảnh: Linzik
Cụ thể, trong biên bản tháng 10, nguyên văn Điều 1, Chương I, như sau: “Mỹ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được công nhận trong Hiệp định Geneva năm 1954″. Các từ ngữ trong phiên bản tháng 1 không sai một chữ.
Một điểm gây chú ý nữa trong Hiệp định Paris là Điều II, Mục 3, Phần b, yêu cầu lệnh ngừng bắn trên thực địa tại miền nam Việt Nam, không giống như Hiệp định Geneva năm 1954, cho phép tái vũ trang ở miền bắc và nam lấy vĩ tuyến 17 làm căn cứ. Trong biên bản tháng 10 có viết: “Các lực lượng vũ trang của hai đảng ở miền nam Việt Nam được duy trì tại chỗ”. Phiên bản tháng 1 cũng giống hệt như vậy. Từng phần, từng phần của hai biên bản cũng giống nhau như đúc.
Thật đáng buồn! Vụ ném bom Giáng sinh không hề “cần thiết” và không có một chút tác động nào đến Hiệp định. Mục đích duy nhất của cuộc ném bom chỉ là tàn phá nền kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ đó tìm cách kéo dài thời gian tồn tại cho chính phủ mà Mỹ hậu thuẫn ở Sài Gòn mà thôi.
Tôi hy vọng những nỗi buồn sẽ nguôi ngoai, như trong một bài thơ của Hồ Chí Minh viết trong tập Nhật ký trong tù:
Sự vật vần xoay đà định sẵn
Hết mưa là nắng hửng lên thôi!
… Người cùng vạn vật đều phơi phới
Hết khổ là vui vốn lẽ đời.
Theo VNE
'Người bạn đường' của bà Nguyễn Thị Bình ở hội nghị Paris
Ông Michel Strachinescu là lái xe cho bà Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại các cuộc đàm phán đi đến ký kết Hiệp định Paris lịch sử về lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973.
Bằng một giọng sang sảng và nhiệt tình, ông Michel Strachinescu khẳng định ông rất vinh dự được lái xe cho đoàn của bà Nguyễn Thị Bình trong vòng 4 năm từ năm 1970. Trong suốt thời gian này, ông cho biết những cảm nhận của mình về bà Nguyễn Thị Bình, bà là "một nhân cách lớn, một người có tầm ảnh hưởng lớn." Ông rất vinh dự được làm công tác đưa đón đoàn đàm phán Miền Nam ở Verrière-le-Buisson và một số đồng chí khác ở Massy, các địa điểm ở Pháp mà phái đoàn lưu trú trong thời gian diễn ra đàm phán.
Một bức ảnh chụp buổi làm việc của bà Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị Parid do bà ký tặng.
Ban đầu, Đảng Cộng sản Pháp cử ông cùng một số người Pháp đến giúp đoàn Việt Nam. Ông được giải thích rằng cần giúp đỡ tận tình các bạn Việt Nam vì sự nghiệp của nhân dân Việt Nam. Dù lúc đó, ông đã 36 tuổi, có gia đình, vợ con, song ông không mấy khi được gặp mặt vợ con, ông đã làm việc đến gần 400 giờ mỗi tháng, và thực sự trở thành một trong những nhà hoạt động tranh đấu thực sự vì nền hòa bình của Việt Nam.
Theo ông đây là một nhiệm vụ quan trọng và vinh dự. Thời điểm đó ông làm việc không thể tính thời gian, ông luôn ủng hộ và đấu tranh cùng các bạn Việt Nam trên mặt trận ngoại giao - mặt trận quan trọng và gắn kết với những thành công và thắng lợi trên mặt trận quân sự. Các mặt trận này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Ông luôn mong mỏi "các bạn Việt Nam sớm đạt được thỏa thuận tiến tới ký Hiệp định Paris về hòa bình."
Để bày tỏ tất cả tình cảm yêu mến Việt Nam, ông chỉ biết thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là "đảm bảo lái xe an toàn, tránh mọi sơ suất trong quá trình phục vụ bà Bình và đoàn đàm phán." Lộ trình hàng ngày của ông là từ Verrière-le-Buisson đi Massy và ngược lại, cũng như lộ trình chở bà Bình đến trung tâm hội nghị Kléber họp. Một hoặc hai lần mỗi tuần ông chở đoàn đến Choisy-le-roi để hội kiến với đoàn Miền Bắc. Vai trò của ông không chỉ đơn thuần là lái xe, mà còn như vệ sĩ của bà Bình. Ông không phải là những người làm công, mà là những nhà hoạt động tranh đấu bên cạnh các bạn Việt Nam, làm việc không kể thời gian, 7 ngày trên 7, nhiều hôm đến 3 giờ sáng. Ông ở ngay tại Verrière-le-Buisson để hỗ trợ, phục vụ các bạn Việt nam và vì sự thành công của cuộc đàm phán.
Ông Michel Strachinescu có kỷ niệm không thể nào quên trong thời gian lái xe. Một hôm đang đi trên đường vành đai Paris, cán cờ hiệu trước xe bị gẫy và lá cờ hiệu rơi xuống đường. Tôi đã không ngần ngại dừng xe khẩn cấp, và mặc dù có thể nguy hiểm đến tính mạng, song tôi vẫn quay lại tìm lấy cờ hiệu trong dòng xe cộ qua lại, bởi đó là một hình ảnh biểu tượng, có ý nghĩa với các bạn Việt Nam đang đấu tranh trên bàn đàm phán.
Được hỏi về những cảm nhận của ông khi biết Việt Nam đã ký thành công Hiệp định Paris, ông Michel Strachinescu, cho biết hôm đó thực sự là một lễ hội đối với ông, ông thực sự ấn tượng và đã uống mừng bằng sâmpanh. Ông còn làm một cái bánh ga tô to để cùng anh em bạn bè Việt Nam mừng chiến thắng này. Tuy nhiên, với các bạn Việt Nam lúc đó "cuộc chiến chưa phải đã kết thúc" vì hiện tại đất nước vẫn đang chia cắt, nhiều gia đình chưa thể đoàn tụ,- tình cảm thực sự xúc động trong ngày hôm đó.
Với ông, làm việc với các bạn Việt Nam "thật tuyệt vời, rất tình người," cho nên theo ông, "những đóng góp của tôi chỉ là một phần nhỏ bé như những con suối nhỏ tạo thành dòng sông lớn, vì sự nghiệp của nhân dân Việt Nam."
Khi đánh giá về những tình cảm của người dân Pháp dành cho nhân dân Việt Nam ở thời điểm đó, ông khẳng định thật "Tuyệt vời!" Nhân dân Pháp cũng như người dân Mỹ phản đối chiến tranh bằng các biểu tình và có nhiều hoạt động ủng hộ hòa bình ở Việt Nam. Ngôi sao điện ảnh Mỹ Jane Fonda đã từng sang Pháp hoạt động đấu tranh vì hòa bình Việt Nam và ông cũng đã có vinh dự chở Jane Fonda. Theo ông, đó là một ngôi sao rất dễ gần, dễ mến. Thời điểm đó, rất nhiều người dân Pháp có tấm lòng yêu hòa bình, phản đối chiến tranh đã ủng hộ Việt Nam.
Để ghi nhận công lao đóng góp của ông đối với cuộc đấu tranh vì hòa bình của dân tộc Việt Nam, ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng bằng khen do bà Nguyễn Thị Bình ký tặng. Đối với ông "Việt Nam là một đất nước tuyệt vời."
Theo VNE
Hội nghị Paris: Cánh cửa hòa bình đã hé mở Lúc đầu mình đề ra hai yêu cầu, thứ nhất là Mỹ rút hết quân và rút vô điều kiện, thứ hai Mỹ phải xóa bỏ chính quyền tay sai. Dần dần mình rút lại từ "chính quyền tay sai" thành "chính quyền". Bấy giờ chúng tôi hiểu là ở nhà, đặc biệt là đồng chí Lê Duẩn, mong muốn ký hiệp định....