Hệ thống đèn thông minh Ford giúp xe tự lái an toàn hơn
Ford tiếp tục thử nghiệm loại đèn thông minh “AV light signal” tại Châu Âu, làm tiền đề cho mẫu xe tự lái trình làng năm 2021.
Ngày nay, theo xu thế phát triển lĩnh vực xe tự lái được các hãng xe cũng như các tập đoàn công nghệ quan tâm. Lĩnh vực xe tự lái cũng có cũng đã ghi nhận những thành công bước đầu của các hãng xe, có thể kể đến như: Audi trang bị khả năng tự lái cấp độ 3 (level 3 SAE) cho chiếc Audi A8, Jaguar Land Rover thử nghiệm thành công xe tự lái trong điều khiện đường phố công cộng tại Anh trên chiếc Range Rover Sport v.v.
Hãng Ford cũng đang triển khai dự án xe tự lái cho riêng mình. Trong quá trình nghiên cứu và phát triển xe tự lái, các chuyên gia của Ford nhận thấy việc “giao tiếp” giữa người, xe tự lái và các phương tiện khác chưa thực sự hiệu quả, là nguyên nhân của một số tai nạn.
Loại đèn thông minh “AV light bar” dành cho xe tự lái của Ford.
Theo đó, Ford đã đưa ra ý tưởng về một loại đèn được gắn phía trước để giúp cho người đi bộ, hay các phương tiện khác hiểu được chiếc xe tự lái đang định làm gì, điều này góp phần thay đổi hành vi của mọi người để thích ứng với những chiếc xe tự lái trong điều kiện giao thông thực tế. Loại đèn của Ford được gọi là “AV light bar” hay “AV light signal” có 3 kiểu sáng khác nhau tương ứng với 3 trạng thái hoạt của xe bao gồm: Xe sắp dừng (khi hai chùm ánh sáng trắng di chuyển hai bên), xe đang hoạt động (đèn sáng liên tục) và xe chuẩn bị di chuyển (đèn sáng và chớp tắt liên tục).
Thử nghiệm đèn thông minh của Ford tại Mỹ cuối năm 2017.
Cuối năm 2017, Ford đã làm việc với VTTI (Viện Giao thông Công nghệ Virginia) để tiến hành một nghiên cứu thực tế về loại đèn này trên chính dự án xe tự lái của mình với chiếc Ford Focus. Kết quả đạt được rất khả quan, giúp các phương tiện xung quanh hiểu rõ phần nào. Ford tiếp tục làm việc với tổ chức tiêu chuẩn kỹ thuật ISO và hiệp hội kỹ sư Mỹ SAE để tạo ra một giao diện hợp nhất, thiết lập một tiêu chuẩn về ý tưởng đèn tín hiệu cho xe tự lái của mình. Trong thời gian chờ đợi, Ford đã hợp tác với Đại học Công nghệ Chemnitz, ở Đức để thử nghiệm ý tưởng này tại Châu Âu với nhiều cải tiến mới và gọi dự án này là Core Lighting.
Thử nghiệm đèn thông minh của Ford Đức.
Ông Thorsten Warwel, quản lý Core Lighting Fod Châu Âu: “Về cơ bản, mọi người cần tin tưởng vào các phương tiện tự trị và phát triển một phương tiện giao tiếp trực quan phổ biến là chìa khóa cho điều đó. Thông thường người đi bộ, người đi xe đạp sẽ sử dụng cử chỉ tay, gật đầu và tín hiệu ngón tay để giao tiếp với người lái xe hơi. Nhưng làm thế nào những chiếc xe tự lái vốn dĩ sẽ không có người lái (level 5) sẽ giao tiếp với những người xung quanh? Chúng tôi đang tìm câu trả lời cho câu hỏi này.”
Nhân viên sẽ mặc một chiếc áo đặc biệt nhằm “nguỵ trang”, để mọi người tưởng rằng đây là xe tự lái.
Video đang HOT
Thử nghiệm mới nhất tại Đức, các nhà nghiên cứu sử dụng mẫu xe Transit và nhân viên sẽ mặc một chiếc áo đặc biệt nhằm “nguỵ trang” với mọi người xung quanh. Mục đích làm cho mọi người tưởng đây là một chiếc xe tự lái hoàn toàn và xem phản ứng của mọi người như thế nào. Kết quả khảo sát cho thấy 60% trong số 173 người được khảo sát sau khi gặp Transit Connect nghĩ rằng đó là một chiếc xe tự trị. Cùng với các phản ứng quan sát được của hơn 1.600 người đều cho thấy có mức độ chấp nhận và tin tưởng cao của con người đối với các tín hiệu của xe. Theo Ford, đây là kết quả ngoài mong đợi cho thí nghiệm này.
Màu sắc đèn được thay đổi để xem phản ứng của mọi người.
Với mục tiêu phát triển một chiếc xe tự lái và triển khai đầu tiên ở Bắc Mỹ vào năm 2021, Ford đang nỗ lực để đảm bảo rằng mọi người tin tưởng vào những chiếc xe tự trị của mình. Điều cần thiết cho việc này là việc tạo ra một tiêu chuẩn công nghiệp để truyền đạt ý định lái xe. Hiện tại, Ford đang hợp tác với một số tổ chức công nghiệp, bao gồm Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế và Hiệp hội Kỹ sư ô tô Quốc tế, và các tổ chức công nghệ khác giúp tạo ra tiêu chuẩn hoá cho ý tưởng của mình.
Như vậy, với những nổ lực và cam kết trên cho thấy hãng Ford đã quyết tâm tham gia vào lĩnh xe tự lái, vốn là “cuộc chơi tốn kém” của các ông lớn trong ngành công nghiệp ô tô.
Theo Nghe nhìn Việt Nam
Quá trình phát triển các hệ thống an toàn xe hơi của Mercedes-Benz
Sự phát triển các hệ thống an toàn của Mercedes-Benz thực sự bắt đầu từ 80 năm trước, khi kỹ sư người Áo Béla Barényi về làm việc cho hãng vào năm 1939.
Mercedes-Benz là một trong những hãng sản xuất ô tô danh tiếng trên thế giới và cũng được xem là hãng sản xuất xe hơi lâu đời nhất đến ngày nay. Đặc biệt, Mercedes-Benz còn là một trong những hãng xe đi tiên phong trong việc giới thiệu nhiều công nghệ mới và những sáng kiến về các công nghệ an toàn cho xe hơi mà sau đó đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới.
Mercedes-Benz đặc trưng cho sự phát triển ô tô với những đổi mới an toàn liên tục trong quá trình phát triển của hãng. Từ giữa thế kỷ 20, thương hiệu Mercedes-Benz đã trở thành một trong những nhà sản xuất ô tô tiên phong cho việc nghiên cứu và phát triển các công nghệ an toàn cho xe.
Trong bài này, cùng nhìn lại những cột mốc quan trọng của sự phát triển hệ thống an toàn cho người lái nổi bật mà Mercedes-Benz đã nghiên cứu, phát triển cũng như áp dụng trên những dòng xe của mình. Đây là những tính năng, công nghệ quan trọng, đóng vai trò là tiền đề cho những công nghệ tính năng an toàn và hỗ trợ lái xe hiện đại ngày nay.
Theo Mercedes-Benz, sự phát triển các hệ thống an toàn của Mercedes-Benz thực sự bắt đầu từ 80 năm trước, khi kỹ sư người Áo Béla Barényi về làm việc cho Mercedes-Benz vào năm 1939. Ông Béla Barényi sinh ngày 1/3/1907 tại Hirtenberg, Áo là một kỹ sư người Áo-Hung. Ông được biết đến như một nhà phát minh đầu tiên cho các hệ thống an toàn cho xe hơi. Ông từng tuyên bố rằng "Khi ông nghỉ hưu vào ngày 31/12/1972, ông có hơn 2.000 bằng sáng chế, gấp đôi so với nhà phát minh lỗi lạc Thomas Edison, người phát minh ra bóng đèn điện ngày nay".
Kỹ sư người Áo Béla Barényi, người đặt nền móng cho các hệ thống an toàn thụ động của Mercedes-Benz.
Sau khi học ngành cơ khí và kỹ thuật điện tại trường đại học Vienna, ông đã làm việc tại các công ty ô tô khác nhau của Áo như Austro-Fiat, Steyr và Adler trước khi gia nhập Daimler-Benz vào năm 1939. Chính Tiến sĩ Wilhelm Haspel, thành viên hội đồng quản trị Daimler-Benz đã trực tiếp phỏng vấn ông Barényi. Trong cuộc phỏng vấn này, Barényi đã giải thích chi tiết cách thức lái, cột lái, vô lăng, hệ thống treo và thân xe thông thường, theo ý kiến của ông, nên được thay đổi để tăng cường an toàn cho người ngồi trong xe. Ông Barény cũng đã trình bày 7 tầm nhìn của mình về một chiếc xe an toàn của tương lai trong vòng 15 - 20 năm tới. Sau đó, tiến sĩ Haspel bị Barényi thuyết phục và nhận thấy tài năng của ông. Ngày 1 tháng 8 năm 1939, Barényi chính thức tiếp quản bộ phận mới thành lập phụ trách nghiên cứu và phát triển các hệ thống an toàn cho hãng.
Một cột mốc quan trọng trong sự an toàn thụ động bắt nguồn từ một ý tưởng của Béla Barényi vào đầu những năm 1950 về "một thân xe chở khách hấp thụ động năng" được tạo ra trong một vụ va chạm bằng cách biến dạng ở phía trước hoặc phía sau trong một mục tiêu, kết hợp với những chi tiết trung tâm nhằm bảo vệ hành khách nhiều nhất có thể trong một vụ tai nạn.
Khung xe hấp thụ động năng đầu tiên được trang bị trên chiếc Mercedes-Benz W111 vào năm 1959.
Khái niệm này đã được đăng ký bằng sáng chế vào năm 1951 và được xem là chi tiết an toàn thụ động đầu tiên trên xe hơi được phát triển và áp dụng trên xe, như một bộ phận giúp tăng cường an toàn. Ý tưởng này được áp dụng đầu tiên trên chiếc xe hạng sang thời điểm đó Mercedes-Benz W 111 từ tháng 9 năm 1959.
Quay trở lại với quá trình phát triển các hệ thống an toàn của Mercedes-Benz, lần đầu tiên, Mercedes-Benz nhận ra nội thất của xe cũng giúp giảm thiệt hại cho người lái, hành khách trong các vụ va chạm. Hãng đã cải tiến vô-lăng giúp hạn chế chấn thương cho tài xế, cũng như chi tiết khóa cửa với hai chốt an toàn bên trong xe.
Điều này có nghĩa là với toàn bộ một loạt các đổi mới, dòng W 111 ngay lập tức trở thành một thế hệ xe đặc trưng cho ngành an toàn thụ động. Điều này ảnh hưởng đến việc xây dựng thân xe (an toàn bên ngoài) cũng giống như thiết kế nội thất xe (an toàn bên trong).
Cho đến năm 1956, Mercedes-Benz đã thử nghiệm, đánh giá ảnh hưởng khả năng biến dạng từng bộ phận của xe trong một vụ tai nạn thực tế. Và trong 50 năm, những kiến thức phát hiện từ các vụ tai nạn giao thông thực sự cũng đã được đưa vào nghiên cứu phát triển an toàn toàn diện các sản phẩm của Mercedes-Benz. Kể từ năm 1969, Mercedes-Benz thành lập bộ phận nghiên cứu phân tích và tái tạo lại những va chạm.
Mercedes-Benz đã thử nghiệm, đánh giá ảnh hưởng khả năng biến dạng từng bộ phận của xe trong một vụ tai nạn thực tế từ năm 1956.
Theo ý kiến các nhà phân tích và chuyên gia của Mercedes-Benz, nhiều sáng kiến cho sự an toàn thụ động của Mercedes-Benz ngày nay sẽ không thể thực hiện được nếu không có nghiên cứu nền tảng trước đây mà đứng đầu do Barényi chịu trách nhiệm. Ví dụ, 60 năm trước, vào ngày 10/9/1959, các thử nghiệm mô phỏng tai nạn với các phương tiện hoàn chỉnh đầu tiên được tiến hành tại nhà máy Sindelfingen. Những thông tin, phân tích đánh giá quý báu, cực kỳ hữu ích cho các hãng khác tham khảo cũng như những các chương trình tổ chức chuyên thử nghiệm đánh giá độ an toàn cho xe hơi ngày nay.
Trong suốt sự nghiệp của mình tại Mercedes-Benz, Béla Barényi đã đăng ký khoảng 2.500 bằng sáng chế từ năm 1939 đến năm 1972, hầu hết trong số đó liên quan đến những đổi mới về an toàn cho xe. Để ghi nhận công việc đột phá của mình, Barényi được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Ô tô (AHOF) tại Dearborn, Michigan (Mỹ) năm 1994. Béla Barényi mất ngày 30 tháng 5 năm 1997, Bbleden, Đức. Để ghi nhận thành quả của ông, trong một quảng cáo của Mercedes dành riêng cho ông và kèm lời tuyên bố "Không ai trên thế giới nghĩ nhiều đến hệ thống an toàn xe hơi hơn người đàn ông này". Ông cũng đã để lại một bản ghi chép rộng rãi về các phát minh của mình cho bảo tàng Technisches Museum Vienna ở quê hương mình tại Vienna, Áo.
Năm 1966, Barényi cùng với giám đốc điều hành phát triển mới của Mercedes-Benz thời điểm đó là Hans Scherenberg, đã thiết kế phân bổ những vị trí an toàn cũng như bổ sung thêm những ý tưởng về hệ thống an toàn chủ động cho xe, và những ý tưởng đó vẫn được áp dụng cho đến ngày nay. Hầu hết các hãng xe đều xem những giải pháp an toàn thụ động như gia cố khung xe, thân vỏ là giải pháp thiết kế cụ thể bảo vệ mọi người khỏi các tác động của tai nạn. Thời điểm đó, những khái niệm về an toàn chủ động của xe chưa xuất hiện trước đó. An toàn chủ động được hiểu là sử dụng các hệ thống can thiệp vào phong cách lái xe của tài xế và cách hỗ trợ để tránh tai nạn hoặc hạn chế mức độ nghiêm trọng của một vụ tai nạn khi xảy ra va chạm.
Trong nhiều thập kỷ, những đổi mới của Mercedes-Benz đã liên tục cải thiện các hệ thống an toàn thụ động trong các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, các vô-lăng an toàn cũng như các chi tiết khác nhau. Cụ thể, Mercedes-Benz đã áp dụng những tiến bộ trong hệ thống điện tử và cảm biến để bắt đầu trong lĩnh vực này.
Việc phát triển túi khí tại Mercedes-Benz bắt đầu vào năm 1966, với bằng sáng chế tương ứng được đăng ký bởi công ty vào năm 1971. Là giải pháp sẵn sàng sản xuất đầu tiên, túi khí của người lái đã được giới thiệu trong chiếc S-Class của series 126 vào năm 1981. Và sự đổi mới này đã nhanh chóng được áp dụng bởi toàn bộ ngành công nghiệp ô tô.
Khung xe hấp thụ lực cùng hệ thống dây an toàn thời điểm đó.
Nguyên tắc cơ bản của túi khí đầu tiên vẫn được áp dụng cho đến ngày nay: nếu bộ điều khiển phát hiện có một tai nạn nghiêm trọng thông qua tín hiệu các cảm biến khác nhau, túi khí được kích hoạt. Một máy phát khí làm đầy túi khí. Túi khí nổ sẽ hạn chế va chạm của người lái vào vô lăng, điều này hỗ trợ của dây an toàn. Thời điểm này, thiết kế dây an toàn mới (giống như ngày nay) cũng được áp dụng cho xe với bộ căng đai và bộ hạn chế lực gọi là SRS (hệ thống hạn chế bổ sung).
Ngày nay, những chiếc xe chở khách thường được trang bị nhiều túi khí hơn như một phần quan trọng của khái niệm an toàn không thể thiếu trong thiết kế của các hãng xe. Chúng bao gồm từ túi khí đầu gối và túi khí vành đai ở phía sau đến túi khí bên ngực / xương chậu. Mercedes-Benz đã thúc đẩy sự phát triển này với những cải tiến liên tục: túi khí hành khách phía trước, với sự ra mắt thế giới vào năm 1987 trong dòng xe sedan và coupe của chiếc Mercedes-Benz S-Class, từ đó đã trở thành một tính năng của an toàn thụ động bắt buộc. Năm 1998, túi khí cửa sổ được hãng nghiên áp dụng trên các dòng xe của mình giúp tăng khả năng cứu sống người lái cũng như hành khách.
Ngoài ra, các thiết kế toàn diện như thân xe được tăng cường an toàn cũng quan trọng đối với câu chuyện thành công của Mercedes-Benz. Ví dụ, cách đây 30 năm, vào tháng 3 năm 1989, chiếc Mercedes-Benz SL R129 đã tạo ra nên những bất ngờ về các hệ thống an toàn của mình tại Triển lãm ô tô Geneva.
Chi tiết thanh cuộn giúp hạn chế chấn thương cho tài xế trong trường hợp xe (mui trần) bị xoay vòng.
Nổi bật là chi tiết thanh cuộn được kích hoạt tự động của chiếc xe mui trần Mercedes-Benz SL R129, giúp hạn chế chấn thương cho tài xế trong trường hợp xe bị xoay vòng khi bị tai nạn. Khi không sử dụng, thanh cuộn rút vào trong ghế lái. Thời gian phản ứng của thanh cuộn chỉ mất 0,3 giây đảm bảo an toàn kịp thời cho người ngồi trong xe.
Nhiều cải tiến an toàn thụ động chi tiết được tiên phong bởi Mercedes-Benz trong suốt 8 thập kỷ nay được tích hợp như một phần của khái niệm an toàn toàn diện. Trên cơ sở này, Mercedes-Benz đang nghiên cứu các khía cạnh an toàn của xe trong tương lai với nhiều dự án nghiên cứu và phát triển, nổi bật là Intelligent Drive.
Khái niệm lái xe thông minh Intelligent Drive là tên được đặt cho triết lý mới của Mercedes-Benz để kết nối tất cả các hệ thống an toàn và hỗ trợ lái xe trong xe hơi, đánh dấu một sự kết hợp chặt chẽ giữa sự thoải mái và an toàn. Năm 2012, các chức năng quan trọng của Intelligent Drive là những tính năng được trang bị trước đó và được nâng cấp cải tiến lên một tầm cao mới bao gồm: giữ khoảng cách DISTRONIC PLUS được nâng cấp tính năng tự đánh lái, phanh chủ động BAS PLUS với tính năng hỗ trợ cảnh báo phương tiện vượt, PRE-SAFE với tính năng phát hiện người đi bộ cũng như phía sau sắp xảy ra va chạm, hay tính năng hỗ trợ tầm nhìn đêm Night View Plus v.v.
Sự phát triển liên tục của các hệ thống hỗ trợ thành công là một phần trong chiến lược phát triển an toàn lâu dài của Mercedes-Benz. Ngoài ra, sự phát triển này góp phần quan trọng vào lĩnh vực xe tự lái của Mercedes-Benz trong những năm tới đây.
Như vậy, từ những tính năng hệ thống an toàn thụ động cơ bản nhất như khung sườn an toàn (1959), túi khí an toàn (1966) v.v...thì đến nay Mercedes-Benz đã có những bước tiến dài với rất nhiều công nghệ hiện đại hỗ trợ người lái.
Theo Nghe nhìn Việt Nam
Bắt đứng Porsche 911 Targa 2019 thế hệ mới trên đường thử Mẫu xe thể thao Porsche 911 Targa 2019 đã được cánh phóng viên ảnh bắt gặp đang trên đường chạy thử, trước khi chính thức ra mắt. Mới đây, cánh phóng viên ảnh đã bắt gặp mẫu xe mui trần Porsche 911 Targa 2019 (mã hiệu 992) đang trên đường chạy thử. Ở phía trước vẫn là cụm đèn pha dạng tròn đặc...