Hay đội mũ dễ bị bệnh trứng tóc
Bệnh trứng tóc có thể xuất hiện ở cả nam lẫn nữ, đặc biệt ở những người thường hay đội mũ hoặc đi ngủ khi tóc còn ướt. Bệnh do một loại nấm gây ra.
Bệnh trứng tóc (piedra) do hai loại nấm gây ra là Piedraia hortae và Trichosporon beigelii. Loại nấm Piedraia hortae gây ra bệnh trứng tóc đen (black piedra) ở người và loài linh trưởng (primates), ít khi phân lập được loại nấm này trong môi trường tự nhiên. Loại nấm Trichosporon beigelii gây ra bệnh trứng tóc trắng (white piedra), nấm có thể gặp trong đất, nước, trên thực vật…; đôi khi có thể thấy nấm hoại sinh trên da, miệng người.
Bệnh trứng tóc đen phổ biến ở những vùng nóng ẩm như Trung Mỹ, Nam Mỹ, Đông Nam Á; còn bệnh trứng tóc trắng xuất hiện rải rác ở khắp nơi trên thế giới. Tại Việt Nam thường hay gặp loại bệnh trứng tóc đen ở những người trưởng thành, chúng có khả năng lây lan trong gia đình khi sử dụng chung lược chải tóc hoặc bàn chải tóc…
Bệnh trứng tóc xuất hiện ở cả nam và nữ, đặc biệt thường phát hiện ở những người hay đội mũ, kể cả mũ bảo hiểm hoặc đi ngủ để đầu tóc còn ẩm ướt sau khi tắm gội hay sau khi bị đổ mồ hôi nhiều, tóc ẩm…
Bệnh trứng tóc đen chỉ gặp ở tóc, những sợi tóc khi sờ vào thấy thô ráp, có các hạt hình thoi, màu nâu, đen bám chặt vào quanh sợi tóc. Kích thước có thể tới vài milimét, thường một đầu to hơn, phía đối diện thu nhỏ lại, cứng, bám cách chân tóc từ 2-4cm; khi vuốt bằng ngón tay thấy vướng.
Bệnh trứng tóc trắng thường gặp ở mặt, lông sinh dục. Những hạt bám trên sợi tóc mềm, trắng hoặc hơi vàng, thường dày nhất ở trung tâm, kích thước nhỏ hơn và dễ bị tuột khỏi sợi tóc hơn so với trứng tóc đen. Sợi tóc yếu và dễ bị gãy ở chỗ có hạt.
Video đang HOT
Việc chẩn đoán bệnh nấm tóc cần xét nghiệm trực tiếp bằng cách nhổ sợi tóc bị bệnh và soi dưới kính hiển vi.
Điều trị bệnh trứng tóc cần cắt bỏ các sợi tóc bị bệnh, chải tóc bằng mỡ benzosali, dung dịch acid salicylic từ 1 – 2% hoặc gội đầu bằng xà phòng sastid, nizoral hay kelog. Trong xét nghiệm ở phòng thí nghiệm (invitro), nếu nấm Piedraia hortae còn nhạy cảm với thuốc terbinafine, có thể sử dụng với liều 250 mg/ngày, dùng trong 6 tuần.
Theo Dân Trí
Bài thuốc thanh nhiệt, giải độc từ diếp cá
Diếp cá là loại cây rau quen thuộc, ưa thích trong nhân dân.
Có nơi gọi cây này là giấp cá, tên thuốc là Ngư tinh thảo, tên khoa học là Houttuynia cordata Thumb, họ lá giấp Saururaceae. Cây thuộc loài cỏ nhỏ, mọc lâu năm, thích hợp với những nơi ẩm ướt, thường mọc hoang hoặc được trồng làm rau ăn ở khắp nơi trên đất nước ta, nhất là những vùng phía Nam.
Diếp cá dùng tươi hoặc phơi khô để làm thuốc, thường thu hái vào mùa hè - thu. Bộ phận dùng là toàn cây rửa sạch, bỏ gốc, rễ. Thành phần hóa học theo các tài liệu cuả Trung Quốc: Ngư tinh thảo chứa tinh dầu, có quercetin, quercetrin, flavonoide, các chất kháng khuẩn dùng hiệu quả trong những trường hợp cơ thể đã quen thuốc kháng sinh (nhờn kháng sinh).
Theo Đông y diếp cá vị cay, chua, tính hàn; quy vào ba kinh, phế, đại trường, bàng quang.
Tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu ung thũng, lợi niệu, thanh thấp nhiệt ở đại tràng, bàng quang, thanh can sáng mắt. Dùng điều trị các bệnh phế nhiệt, phế ung, phế có mủ, viêm khí quản, ho ra máu, sốt cao, viêm họng, các trường hợp tiết tả, thoát giang, viêm bàng quang, đau mắt đỏ, nhiều dử, mắt viêm nhiễm. Liều dùng 12-20g khô hoặc 20-40g tươi.
Một số bài thuốc có vị diếp cá.
Bài 1: Trị phế ung, phế có mủ (abcese phổi), nôn ra máu dùng diếp cá, thiên hoa phấn, trắc bách diệp lượng bằng nhau mỗi thứ 20g, sắc uống.
Bài 2: Trị viêm phổi, viêm phế quản, sốt cao: diếp cá 16g, hậu phác 12g, liên kiều 16g, tang chi 36 g. Sắc uống.
Bài 3: Trị bệnh tả lỵ dùng diếp cá 24g, sơn tra thán 8g, sắc lấy nước thêm chút đường để uống đến khi hết bệnh.
Bài 4: Trị các trường hợp trĩ sang: Diếp cá sắc lấy nước, hòa rượu uống, dùng bã xông rửa nếu có mủ sẽ nhanh vỡ, chưa có mủ thì tự tiêu dùng vài thang liền.
Bài 5: Trường hợp lòi dom, trĩ ngoại: diếp cá tươi giã nát đắp, kết hợp sắc lấy nước xông rửa vết đau.
Bài 6: Chữa mụn nhọt, sưng độc dùng diếp cá nghiền thành bột, hòa với mật ong đắp, nếu chưa có mủ thì tiêu, có mủ thì nhanh bài tiết mủ.
Bài 7: Trường hợp bàng quang thấp nhiệt dẫn đến bí tiểu, đái buốt, đái dắt dùng diếp cá, bông mã đề, bạch mao căn, râu ngô, mỗi thứ 12g. Nếu sỏi ở niệu đạo dùng diếp cá 40g, xa tiền tử 20g, kim tiền thảo 40g, sắc uống.
Bài 8: Trường hợp viêm họng, sốt cao dùng diếp cá sắc đặc, ngậm một lúc rồi uống, ngày 2-3 lần.
Bài 9: Chữa đau mắt đỏ, viêm nhiễm nhiều dử, nhất là do vi khuẩn mủ xanh gây nên, dùng diếp cá tươi sắc uống trong, bã gói vào gạc sạch đắp bên ngoài sẽ nhanh khỏi.
Theo Eva
Rau diếp cá - Kháng sinh thảo dược Rau diếp cá có tên khác là cây lá giấp, ngư tinh thảo, rau vẹn, tập thái. Là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt, có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa...