Hành trình vươn mình của “Thành phố bên bờ sông Mã”
Cách đây 217 năm, vào mùa xuân năm 1804, vua Gia Long chỉ dụ dời trấn thành Thanh Hoa từ làng Dương Xá, xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa (nay là phường Thiệu Dương, thuộc TP Thanh Hóa) về làng Thọ Hạc, là dấu mốc quan trọng trong sự hình thành và vươn mình phát triển của TP Thanh Hóa ngày nay.
Diện mạo mới của Trung tâm TP Thanh Hóa.
Vùng đất Hạc Thành không chỉ ôm trong mình một nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, truyền thống vẻ vang trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, mà còn là nơi hội tụ khí thiêng sông núi, trí tuệ, bản lĩnh, ý chí, khát vọng của người dân xứ Thanh. Bởi vậy, nhằm tạo sự bứt phá nhanh, mạnh mẽ cho “Thành phố bên bờ sông Mã”, ngày 7-11-2008, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU về “Xây dựng và phát triển TP Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”.
Đầu tàu về kinh tế
Giai đoạn 2011-2020, kinh tế của TP Thanh Hóa đã có bước phát triển mạnh mẽ, với giá trị sản xuất bình quân đạt 14,9%. Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn năm 2020 đạt 118.944 tỷ đồng, gấp 2 lần năm 2015 và gấp 4 lần năm 2010 và đứng đầu các thành phố trực thuộc tỉnh ở khu vực Bắc Trung bộ. Năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của đại dịch COVID-19, nhưng kinh tế của thành phố vẫn có mức tăng trưởng cao, với tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt 12,1%; thu nhập bình quân đầu người đạt 82 triệu đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ. Đây là mức tăng trưởng cao trong điều kiện kinh tế bị ảnh hưởng lớn bởi dịch COVID-19. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, đúng định hướng, đặc biệt các ngành công nghiệp và dịch vụ – thương mại phát triển sôi động, giữ được nhịp độ tăng trưởng cao.
Trong 10 năm trở lại đây, ngành công nghiệp – xây dựng của TP Thanh Hóa có sự phát triển mạnh về quy mô, chất lượng. Trên địa bàn thành phố hiện có 3 khu công nghiệp và 5 cụm công nghiệp đang hoạt động, thu hút khoảng 400 nhà máy, xí nghiệp vào sản xuất, kinh doanh với tổng vốn đầu tư 39.236 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 65.000 lao động. Các nhà máy, xí nghiệp đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước khoảng 460 tỷ đồng/năm. Nhờ vậy, giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng bình quân của thành phố giai đoạn 2011-2020 đạt 15,7%. Trong đó, năm 2020 đạt 77.463 tỷ đồng, gấp 4 lần năm 2010. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp – xây dựng, lĩnh vực dịch vụ – thương mại từ lâu đã khẳng định được ưu thế vượt trội trong cơ cấu kinh tế của TP Thanh Hóa. Để khai thác tiềm năng, lợi thế là “cầu nối” giao thương giữa các tỉnh, thành phố phía Bắc với khu vực Bắc Trung bộ, thành phố đã huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng, nâng cấp, phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ – thương mại theo hướng hiện đại. Giai đoạn 2016-2020, trên địa bàn thành phố đã có 2 trung tâm thương mại, 39 siêu thị, cửa hàng tiện ích, 95 khách sạn, nhà nghỉ được đầu tư xây dựng. Đồng thời, thực hiện chuyển đổi mô hình quản lý, kinh doanh, khai thác 26/37 chợ trên địa bàn. Hạ tầng dịch vụ – thương mại phát triển cả về quy mô, loại hình và chất lượng, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của thành phố bằng những con số “biết nói”. Cụ thể, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành dịch vụ – thương mại của thành phố trong giai đoạn 2011-2020 tăng 15,5%. Nếu như năm 2020, giá trị sản xuất ngành dịch vụ của thành phố đạt 37.722 tỷ đồng, gấp 3,9 lần năm 20210, thì năm 2021, đạt 43.263 tỷ đồng, tăng 8,9%. Kết quả trên là nền tảng để TP Thanh Hóa tiến những bước vững chắc trở thành trung tâm dịch vụ – thương mại hàng đầu của khu vực Nam đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ.
Diện mạo đô thị ngày càng hiện đại
TP Thanh Hóa những ngày cuối năm đỏ thắm cờ Đảng, cờ Tổ quốc mừng Đảng, mừng Xuân Nhâm Dần 2022. Cầu Nguyệt Viên tựa như chiếc “vương miện” kết nối đôi bờ sông Mã. Đứng trên cầu, ngắm khung cảnh Khu Trung tâm Hành chính TP Thanh Hóa, Khu đô thị Vinhomes Star City, Khu đô thị Eurowindow Garden City, Đại lộ Nguyễn Hoàng có thể thấy một phần dáng vóc của “thành phố bên bờ sông Mã” hôm nay.
Video đang HOT
Cột mốc đánh dấu cho những đổi thay của diện mạo TP Thanh Hóa là Nghị quyết số 05/NQ-CP ngày 29-2-2012 của Chính phủ về việc “Điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Hoằng Hóa, Thiệu Hóa, Đông Sơn và Quảng Xương để mở rộng địa giới hành chính thành phố và thành lập các phường thuộc TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa”. Sau khi mở rộng địa giới hành chính thêm 19 xã từ các huyện Thiệu Hóa, Hoằng Hóa, Đông Sơn, Quảng Xương, thành phố đã tập trung quy hoạch, kiến thiết “đô thị trẻ”. Trên cơ sở các quy hoạch, thành phố đã dành mọi nguồn lực để đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị hiện đại, bảo đảm sự kết nối giữa nội thành với ngoại thành, cũng như các vùng kinh tế trọng điểm trong và ngoài tỉnh. Giai đoạn 2011-2020, thành phố đã đầu tư nâng cấp, làm mới 306,4 km đường giao thông nội thành; hạ ngầm 153,9 km đường điện chiếu sáng và cải tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng hồ Đồng Chiệc, hồ Thành, hồ Đông Vệ, khuôn viên cây xanh Quảng trường Lam Sơn… Sự đổi thay của TP Thanh Hóa còn hiện hữu từ những tuyến đường được đầu tư mở mới. Trong đó phải kể đến Đại lộ Nguyễn Hoàng, Đại lộ Võ Nguyên Giáp, Đại lộ Đông – Tây, đường tránh phía Tây, đường nối trung tâm TP Thanh Hóa đến đường từ Cảng Hàng không Thọ Xuân đi Khu Kinh tế Nghi Sơn. Nổi bật trong bức tranh đô thị thành phố hôm nay chính là các khu đô thị mới. Từ dòng vốn đầu tư của nhiều tập đoàn lớn các Khu đô thị Vinhomes Star City Thanh Hóa, Eurowindow Garden City, Đông Hải, Trung tâm Thương mại Vincom Plaza Thanh Hóa với quần thể công trình nhà ở, khách sạn hiện đại, mang phong cách châu Âu đã ra đời và trở thành nơi “đáng sống” của người dân xứ Thanh. Sau 7 năm được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thanh Hóa, TP Thanh Hóa hôm nay đã khang trang, hiện đại hơn.
Hướng đến tương lai với khát vọng vươn lên, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố đang bắt đầu “guồng quay” xây dựng, phát triển TP Thanh Hóa đến năm 2030 trở thành thành phố thông minh, văn minh, hiện đại, là 1 trong 5 thành phố trực thuộc tỉnh dẫn đầu cả nước, một động lực quan trọng đưa tỉnh Thanh Hóa trở thành cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc. Đồng hành cùng với TP Thanh Hóa, ngày 25-10-2021, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về “Xây dựng và phát triển TP Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045″. Đi liền với đó là các cơ chế, chính sách đặc thù, nhằm khơi thông nguồn lực để “Thành phố bên bờ sông Mã” cất cánh, xứng đáng là “trái tim” của cả tỉnh.
Đồng bằng sông Cửu Long có sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Sáng 26/10, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị Tổng kết Nghị quyết 21-NQ/TW, Kết luận số 28-KL/TW về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời kỳ năm 2011-2020.
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Triển khai Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/10/2003 của Bộ Chính trị khóa IX (Nghị quyết 21) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2001-2010; kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2011-2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giá trị sản xuất.
Phát triển nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của vùng ĐBSCL. Tạo mới liên kết chặt chẽ giữa nông dân, ngư dân với các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Theo ông Nguyễn Tất Đại, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, nông nghiệp vùng ĐBSCL đã có sự liên tục tăng trưởng với tốc độ cao nhờ khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, đưa ĐBSCL thành vùng nông nghiệp chiến lược của Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Trong giai đoạn 2004-2020, nông nghiệp ĐBSCL đóng góp trung bình 33,54% GDP nông nghiệp cả nước và 30% GDP chung của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP nông nghiệp ĐBSCL giai đoạn 2004-2020 đạt 4,6% cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước (3,76%).
ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về sản lượng gạo, tôm nước lợ, cá tra và trái cây, với 24,51 triệu tấn gạo, chiếm 56% tổng sản lượng của cả nước; 671,7 nghìn tấn tôm, chiếm 83,51%; 1,41 triệu tấn cá tra, chiếm 98% và 4,3 triệu tấn trái cây, chiếm 60%.
Trong những năm qua, Đảng, Chính phủ đã dành mối quan tâm to lớn cho công tác phát triển thuỷ lợi phục vụ cấp nước, tiêu nước, kiểm soát lũ, ngăn mặn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ đó, hạ tầng thủy lợi; hạ tầng phòng, chống thiên tai; hạ tầng cấp nước... được đầu tư khá lớn. Các hệ thống cơ sở hạ tầng đã góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của người dân.
Đến hết năm 2020, vùng ĐBSCL đã có 60,8% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 2 địa phương là thành phố Cần Thơ, tỉnh Bạc Liêu đã có 100% số xã đạt chuẩn; có 31 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Về quy hoạch phát triển nông nghiệp của vùng, cây trồng, vật nuôi được quy hoạch phù hợp điều kiện đất đai, khí hậu điều kiện xã hội là nhằm xây dựng nền nông nghiệp của vùng phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh. Các lĩnh vực được áp dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, các bộ, ngành, địa phương đã có những giải pháp quyết liệt triển khai, dành nhiều hơn nguồn vốn của Nhà nước để tập trung đầu tư cho những dự án, công trình hạ tầng cấp bách, thiết yếu hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Riêng về phát triển giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, ĐBSCL đang phát triển 3 sản phẩm nông nghiệp chính là lúa gạo, cây ăn quả và thủy sản (cá tra, tôm nước lợ), phấn đấu đến năm 2025, xác định được bộ giống tốt nhất cho 3 ngành hàng chủ lực này.
Với việc chuyển đổi sản xuất nông nghiệp vùng theo thứ tự ưu tiên là thủy sản - cây ăn quả - lúa gạo, ông Trần Công Khôi, Phó Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản cho biết, cơ cấu sản xuất thuỷ sản chuyển biến theo hướng tích cực là tăng tỷ trọng nuôi trồng và giảm tỷ trọng khai thác. Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, thành một ngành sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao, làm thay đổi cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản vùng ĐBSCL tăng bình quân là 2,6%/năm. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản cũng tăng bình quân 9 %/năm, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân về sản lượng của cả nước. Cùng với đó, vùng có ngành ông nghiệp chế biến thủy sản đã phát triển nhanh, hình thành một số doanh nghiệp quy mô lớn có tính dẫn dắt định hướng cho chuỗi sản xuất.
Tuy nhiên, theo ông Trần Công Khôi, cơ chế chính sách thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế, doanh nghiệp vào phát triển thủy vùng ĐBSCL còn nhiều bất cập, hạn chế, thiếu và không đồng bộ. Chưa xây dựng được các mô hình liên kết đầu tư như hợp tác công tư, đầu tư mồi,... do đó chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào phát triển thủy sản.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam phát biểu. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam, nông nghiệp vùng ĐBSCL đã có những thành tựu vượt bậc. ĐBSCL đóng góp tỷ lệ lớn vào GDP nông nghiệp cả nước, thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu. Thu nhập trên mỗi ha đất sản xuất nông nghiệp không ngừng tăng lên.
Các sản phẩm lúa gạo, trái cây, thủy sản của vùng đã xuất khẩu đi hàng loạt các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc... Chăn nuôi gia súc gia cầm cũng được chuyển dịch theo hướng từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại áp dụng khoa học kỹ thuật, tăng hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên, quá trình phát triển đang chậm lại so với nhiều vùng khác. Lĩnh vực nông nghiệp vốn có lợi thế nhưng chưa phát huy hết tiềm năng. Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, muốn phát triển ĐBSCL cả về nông thôn mới, môi trường... thì cần phát triển kinh tế.
Với phát triển nông nghiệp, vùng cần tổ chức sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai. Đổi mới chính sách đất đai, cho phép xây dựng cơ chế đặc thù để thúc đẩy chuyển đổi, tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Các chính sách ỗ trợ người dân trong quá trình chuyển đổi đất lúa.
Chính sách tín dụng cần được đẩy mạnh theo chuỗi giá trị cho hộ nông dân, tổ chức kinh tế tập thể, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, nhất là theo ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường; phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ logistics hỗ trợ nông nghiệp.
Cùng với nguồn ưu tiên từ ngân sách Trung ương, vùng cần thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công - tư đối với việc xây dựng hạ tầng; đặc biệt là hạ tầng cho phát triển chế biến sản phẩm, vùng chuyên canh chủ lực. Ưu tiên thu hút đầu tư các doanh nghiệp tại các vùng lõi của vùng chuyên canh chủ lực. Thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, hợp tác xã, cộng đồng đầu tư vào các sản phẩm đặc sản theo mô hình OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm) gắn với phát triển du lịch, đặc biệt tại các vùng linh hoạt.
Tại hội nghị, các đại biểu đều đề nghị Bộ Chính trị tiếp tục có Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL cho giai đoạn tiếp theo hướng phát triển thích ứng với biến đổi khí hậu, làm cơ sở để Chính phủ, Thủ tướng chính phủ và các bộ, ngành, địa phương thực hiện.
Đến km số 0 đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ xem nông dân sử dụng vốn ưu đãi của Chính phủ Chúng tôi về huyện Tân Kỳ (Nghệ An) - nơi khởi đầu con đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ hào hùng để tìm hiểu việc nông dân sử dụng vốn ữu đãi của Chính phủ thông qua hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội vào việc phát triển kinh tế xã hội, giảm nghèo và vươn lên làm...