Hành động vì màu xanh của biển
Nhiệm vụ trọng yếu phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền trong tình hình mới vẫn còn nhiều thách thức được đặt ra
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, đánh giá 2 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định phát triển bền vững kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Tiềm năng nhiều, thách thức lớn
Việt Nam có 28 tỉnh, thành ven biển, với bờ biển dài 3.260 km, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các đảo quốc và lãnh thổ trên thế giới. Biển Đông là cầu nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nằm trên ngã tư của tuyến hàng hải và hàng không quốc tế. Trong đó, diện tích biển của Việt Nam chiếm khoảng 29% diện tích của biển Đông (gần 1 triệu km2), rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền.
Biển Đông chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên, đặc biệt là dầu khí. Nguồn dầu khí đã thăm dò, khảo sát ở nước ta có trữ lượng khoảng 3-4 triệu tấn dầu quy đổi. Bên cạnh nguồn tài nguyên hải sản dồi dào, chúng ta còn có tài nguyên du lịch ven biển, với dọc bờ biển của cả nước có khoảng 125 bãi biển lớn, nhỏ, rất thuận lợi cho phát triển du lịch – nghỉ dưỡng.
Đó là những tiềm năng to lớn để nước ta phát triển kinh tế biển, đặc biệt là các ngành khai thác khoáng sản, nuôi trồng đánh bắt hải sản và phát triển du lịch, thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết số 36-NQ/TW đã đề ra.
Video đang HOT
Tuy nhiên, nhiệm vụ trọng yếu phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền trong tình hình mới vẫn còn nhiều thách thức được đặt ra. Những thách thức đó là các tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Theo đánh giá thì Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu trong 30 năm tới. Bên cạnh đó là những thách thức về ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, việc phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Tiến sĩ Dư Văn Toàn (Viện Nghiên cứu biển và Hải đảo – Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam) nhận định dải ven biển nước ta có nhiều nguồn tiềm ẩn gây ô nhiễm, hầu hết những chất gây ô nhiễm đều từ đất liền đổ ra sông và theo đường sông đổ ra biển.
Nước ta có tới trên 100 con sông đổ ra biển Đông, trong đó hơn 10 con sông đang ở mức độ ô nhiễm nặng, điển hình như sông Cầu, sông Đáy, sông Thị Vải… Báo cáo hiện trạng môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết hằng năm, các con sông thải ra biển 880 km3 nước và 270-300 triệu tấn phù sa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển như các chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại khác từ những khu dân cư tập trung, khu công nghiệp và đô thị các khu nuôi trồng thủy sản ven biển, các vùng sản xuất nông nghiệp.
Một trong những thách thức lớn cho phát triển kinh tế biển ở Việt Nam là ô nhiễm môi trường biển Ảnh: TRẦN VĂN
Phải hành động quyết liệt
Trong khi đó, môi trường sinh thái biển Việt Nam tiếp tục suy giảm tính đa dạng sinh học, nhất là vùng ven bờ ngày càng bị đe dọa. Đó là tốc độ đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp, khu du lịch nghỉ dưỡng ven biển nhưng thiếu quy hoạch, thiếu hệ thống xử lý nước thải, dẫn đến môi trường sinh thái của hàng trăm ngàn km2 biển ven bờ bị ảnh hưởng. Cùng với đó là ô nhiễm từ nuôi trồng thủy sản một cách bừa bãi; nạn khai thác khoáng sản ồ ạt đã tác động xấu đến môi trường. Thêm vào đó, rừng ngập mặn bị tàn phá nghiêm trọng, 90% rạn san hô bị đe dọa hủy hoại, khoảng 85 loài thủy sản trong tình trạng nguy cấp ở nhiều mức độ khác nhau, trong đó có 70 loài được đưa vào sách đỏ.
Những năm gần đây, tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa… đã xảy ra hiện tượng thủy triều đỏ gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản. Chưa kể ô nhiễm không khí cũng có tác động mạnh tới môi trường sinh thái biển, bởi nồng độ khí C02 trong không khí gia tăng sẽ làm lượng C02 trong nước biển thay đổi dẫn đến môi trường sống của các loài sinh vật biển thay đổi.
Để kinh tế biển thực sự phát triển bền vững, chúng ta phải sớm có hành động quyết liệt nhằm giải quyết những bất cập trên. Phải ngăn chặn cho được tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng tại các điểm, khu vực, vùng bị ô nhiễm; đồng thời chú trọng công tác phòng ngừa và kiểm soát môi trường. Một trong những giải pháp đó là xây dựng các trạm kiểm soát môi trường tại những cửa sông đổ ra biển, cùng với phát triển và bảo tồn các khu rừng ngập mặn ven biển.
Trong khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, điều quan trọng là phải hoàn thiện khung thể chế quản lý biển một cách khoa học và phù hợp với thực tiễn. Đó là xây dựng các khu bảo tồn biển kết hợp với giới hạn thời gian khai thác hải sản trong năm, tạo điều kiện cho các loài sinh vật biển phát triển.
Để làm được như vậy cần có sự chung tay của các cơ quan, tổ chức và từng cá nhân trong xã hội. Trong thời gian qua, ở các địa phương, những mô hình nuôi trồng đánh bắt thủy sản gắn với bảo vệ môi trường biển được áp dụng mang lại nhiều tác động tích cực đến bảo vệ môi trường, như mô hình nuôi trồng thủy sản đa canh kết hợp với bảo vệ rừng ngập mặn tại Bến Tre, Trà Vinh; áp dụng chi trả dịch vụ môi trường ở một số tỉnh duyên hải miền Trung; sử dụng đèn led để đánh bắt hải sản ở Ninh Thuận…
Giữ màu xanh cho rừng: Khởi sắc kinh tế lâm nghiệp
Phát huy lợi thế với diện tích rừng hiện có 647.107,05ha, tỉnh Thanh Hóa đã và đang đẩy mạnh phát triển bền vững ngành lâm nghiệp, mang lại hiệu quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Ông Vũ Quang Tuyến, thôn Eo Bàn, xã Thạch Long (Thạch Thành) chăm sóc rừng trồng của gia đình.
Chúng tôi đến thăm gia đình ông Vũ Quang Tuyến, thôn Eo Bàn, xã Thành Long (Thạch Thành), một trong những hộ nhờ trồng rừng mà cuộc sống đã cải thiện đáng kể. Ông Tuyến cho biết: "Trước đây, cuộc sống của cả gia đình chỉ trông chờ vào nương ngô, nương sắn, mỗi khi giáp hạt phải vất vả đi làm thuê để có tiền mua gạo, nhưng không đủ cho lũ trẻ no bụng. Năm 2012, được cán bộ xã hướng dẫn, gia đình tôi trồng 12ha keo theo tiêu chuẩn quốc tế FSC. Sau 7 năm chăm sóc đến khi thu hoạch, trừ chi phí, gia đình còn lãi 800 triệu đồng, cao gấp đôi trồng rừng theo kiểu truyền thống trước kia. Hiện 12ha cây keo trồng sau thu hoạch vụ đầu đang sinh trưởng tốt, hứa hẹn cho năng suất, chất lượng cao".
Cũng như gia đình ông Tuyến, nhiều hộ gia đình ở xã Thành Long nhờ trồng rừng đã vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng ngay trên mảnh đất quê hương mình. Hiện nay, xã Thành Long có 683ha được cấp chứng chỉ rừng trồng theo tiêu chuẩn quốc tế FSC. Ông Vũ Trọng Hùng, Chủ tịch UBND xã, cho biết: Trước đây, việc vận động người dân trồng rừng gặp nhiều khó khăn bởi tâm lý sợ trồng rừng không có lãi, không bán được như trồng sắn, trồng ngô. Những năm gần đây, nhờ trồng rừng nói chung và trồng rừng theo tiêu chuẩn quốc tế FSC, kết hợp với chăn nuôi, hàng trăm hộ dân đã vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng. Thấy được hiệu quả kinh tế của việc trồng rừng, Nhân dân trong xã mạnh dạn đầu tư vốn, mua giống cây có năng suất, chất lượng cao về trồng, tích cực chăm sóc cho cây trồng.
Các xã khác trên địa bàn huyện Thạch Thành đã và đang tập trung huy động các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, xây dựng mô hình thâm canh rừng sản xuất gỗ theo tiêu chuẩn FSC. Đẩy mạnh giao đất, giao rừng để bảo đảm rừng có chủ, nâng cao hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng, tìm kiếm thị trường tiêu thụ lâm sản để ổn định đầu ra sản phẩm, giúp người dân yên tâm đầu tư sản xuất.
Ông Trần Bá Sơn, Phó Chủ tịch UBND huyện Thạch Thành, cho biết: Huyện có 27.666,06ha rừng. Thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp, huyện đã phát triển diện tích cây ăn quả, khuyến khích các doanh nghiệp, hộ dân tích tụ đất đai, tập trung chuyển đổi những diện tích sản xuất lúa, mía kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả, đẩy mạnh trồng rừng theo tiêu chuẩn quốc tế FSC. Đến nay, huyện đã trồng 15.609,97ha rừng, trong đó, trên 3.300ha trồng theo tiêu chuẩn FSC; phát triển vùng cây ăn quả với tổng diện tích gần 1.300ha, trong đó có hơn 500ha cam, bưởi; có 7.269 hộ dân nhận khoán bảo vệ rừng. Công tác xã hội hóa lâm nghiệp có chuyển biến tích cực, mang lại hiệu quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, tạo việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng trong công cuộc xóa nghèo bền vững. Năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo huyện Thạch Thành giảm xuống còn 5,13%, thu nhập bình quân đầu người đạt 42,9 triệu/người.
Là địa phương có diện tích đất rừng lớn của tỉnh với 85.402,97ha, những năm gần đây, huyện Quan Hóa đã có nhiều giải pháp phát triển vùng nguyên liệu gắn với chế biến, qua đó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành lâm nghiệp. Hiện, Quan Hóa có 4.100ha rừng luồng đã phục tráng (trong tổng diện tích có 27.268,6ha rừng luồng), trong đó có 2.369,6ha luồng được cấp chứng chỉ quốc tế FSC. Ngoài ra, huyện đã thành lập 27 tổ, nhóm nông dân hợp tác phát triển rừng luồng, đã có 2 tổ, nhóm tham gia ký hợp đồng bán luồng trực tiếp cho nhà máy chế biến. Cùng với tiêu thụ nguồn nguyên vật liệu tại chỗ, các cơ sở còn thu mua lâm sản từ các vùng lân cận để chế biến, tạo việc làm, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Năm 2020, giá trị sản xuất lâm nghiệp toàn huyện đạt 335,622 tỷ đồng, trong đó giá trị xuất khẩu là 4,8 triệu USD. Hiện nay, độ che phủ rừng của huyện đạt 84,4%, năm 2020 khai thác được 16,8 triệu cây luồng và 9,6 triệu cọc luồng, 18.000m3 gỗ vườn, gỗ rừng trồng,...
Cùng với Thạch Thành, Quan Hóa, kinh tế lâm nghiệp nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực miền núi có những bước khởi sắc, chuyển dần từ lâm nghiệp truyền thống sang lâm nghiệp xã hội hóa, trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Năng suất, chất lượng rừng ngày càng tăng, từng bước hình thành vùng sản xuất nguyên liệu tập trung. Theo báo cáo của Chi cục Kiểm lâm tỉnh, từ năm 2016 đến nay, trung bình mỗi năm tỉnh trồng mới 10.380ha rừng, nâng tổng diện tích rừng trồng lên 253.743,19ha. Năm 2020, giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp toàn tỉnh đạt 1.866 tỷ đồng, tăng 374 tỷ đồng so với năm 2015. Rừng tự nhiên giai đoạn 2015 - 2020 tăng trên 9.100ha, trữ lượng gỗ tăng 632.000m3. Toàn tỉnh hiện có 475 cơ sở kinh doanh, chế biến, sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu gỗ; 86 cơ sở chế biến tre, luồng, nứa, vầu đã tạo việc làm, thu nhập cao cho nhiều lao động nông thôn.
Thực tiễn cho thấy, chủ trương phát triển lâm nghiệp của tỉnh ta trong những năm qua đã góp phần làm thay đổi nhận thức của các cấp chính quyền và người dân địa phương, nhất là người dân vùng sâu, vùng xa, đó là chuyển từ lâm nghiệp truyền thống theo hướng xã hội hóa, chuyển từ khai thác, lợi dụng rừng tự nhiên là chính, sang trồng rừng kinh tế, khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ rừng. Từ đó đã góp phần tích cực trong giảm nghèo và bảo vệ môi trường.
Nâng cấp, bổ sung mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn theo hướng tự động Ngành Khí tượng Thủy văn đã và đang được đầu tư nâng cấp mạng lưới quan trắc khí tượng tự động, đồng bộ với mục đích chuyển dần từ đo thủ công sang tự động . Nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn đáp ứng các yêu cầu trong điều hành chính sách, phát triển...