Hàng trăm hộ từ chối nhà chống bão lụt
Hàng trăm hộ dân ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị đang né xây nhà chống bão lụt theo quyết định hỗ trợ của Chính phủ.
Quyết định nhân văn
Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 48 về hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng tránh bão, lụt ở 14 tỉnh miền Trung, từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Theo đó, các hộ được hỗ trợ từ 12 đến 16 triệu đồng, vay vốn ưu đãi tối đa 15 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội để xây nhà phòng tránh lụt bão. Đây là một quyết định rất đúng đắn, mang tính nhân văn cao.
Vì hoàn cảnh khó khăn nên hàng trăm hộ dân huyện Hải Lăng xin rút khỏi chương trình hỗ trợ xây nhà chống bão, lụt của Chính phủ. Ảnh: Ngọc Vũ
Một mình tôi phải nuôi hai con ăn học, bản thân lại hay đau ốm, công việc bấp bênh. Nhà nước chỉ hỗ trợ 12 triệu đồng, tôi không thể làm nhà được. Xây được một căn nhà ít nhất cũng mất vài chục triệu đồng, nếu làm thì phải vay, nhưng vay thì làm gì ra để trả?”. Bà Hồ Thị Tuyến
Dựa vào Quyết định 48, năm 2015, UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành đề án hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng tránh bão, lụt trên địa bàn. Cả tỉnh có hơn 3.200 hộ nằm trong dự án được hỗ trợ. Nhưng đến năm 2016, sau khi rà soát lại có nhiều hộ chưa đủ điều kiện nên chỉ còn hơn 2.500 hộ nằm trong dự án. Theo đó, số hộ không thuộc vùng khó khăn và thôn đặc biệt khó khăn được hỗ trợ 12 triệu đồng/hộ; hộ cư trú tại vùng khó khăn được hỗ trợ 14 triệu đồng/hộ.
Riêng huyện Hải Lăng có 1.010 hộ được hỗ trợ xây dựng nhà chống bão, lụt. Tuy nhiên, sau khi rà soát chỉ có 652 hộ thực hiện được, 358 hộ còn lại xin rút khỏi chương trình xây nhà chống bão, lụt vì lý do hoàn cảnh khó khăn, già cả neo đơn, chưa có đất ở hoặc không muốn vay nợ.
Video đang HOT
Theo đơn giá năm 2014, mỗi căn nhà xây dựng theo Nghị định 48 rộng 10m2 trị giá hơn 40 triệu đồng. Vậy nhưng, ngân sách chỉ hỗ trợ từ 12-14 triệu đồng thì những hộ khó khăn, người già neo đơn không thể làm nhà được.
Mức hỗ trợ hạn chế
Ngồi trong căn nhà cấp 4 nhỏ hẹp, bà Hồ Thị Tuyến (49 tuổ.i, trú thôn Mai Đàn, xã Hải Lâm, huyện Hải Lăng) cho biết, đã tự nguyện xin rút khỏi chương trình hỗ trợ xây nhà chống bão, lụt vì không đủ điều kiện.
“Một mình tôi phải nuôi hai con ăn học, bản thân lại hay đau ốm, công việc bấp bênh. Nhà nước chỉ hỗ trợ 12 triệu đồng, tôi không thể làm nhà được. Xây được một căn nhà ít nhất cũng mất vài chục triệu đồng, nếu làm thì phải vay, nhưng vay thì làm gì ra để trả?” – bà Tuyến buồn rầu nói.
Ông Phạm Đình Lợi – Phó Chủ tịch UBND huyện Hải Lăng cho biết, là địa phương có địa hình thấp trũng, thường xuyên bị ngập úng nên việc xây nhà chống bão, lụt là rất cần thiết. Tuy nhiên, mức hỗ trợ theo Nghị định 48 còn hạn chế, hộ nghèo không đủ sức vay vốn xây nhà. Vì vậy, huyện đã có đề xuất xin UBND tỉnh kéo dài thời gian thực hiện dự án để huy động các nguồn lực khác lồng ghép, hỗ trợ thêm cho các hộ khó khăn nhằm xây cho bằng được nhà chống bão, lụt.
Ông Lê Công Định – Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Quảng Trị cho biết, đến cuối năm 2016 tiến độ xây dựng nhà chống bão lụt theo Quyết định số 48 tại tỉnh Quảng Trị chỉ mới đạt 55%. Tổng nguồn vốn T.Ư chuyển về tỉnh để thực hiện “nhà 48″ là gần 43 tỷ đồng, hiện đã bố trí hơn 31 tỷ đồng và giải ngân về cho người dân khoảng 20 tỷ đồng.
“UBND tỉnh đã đề xuất cấp trên kéo dài thời gian thực hiện nghị định 48 nhằm quyết tâm hoàn thành đề án, giúp dân có nhà ở kiên cố, cuộc sống tốt hơn” – ông Định nói.
Theo Danviet
Vốn không hoàn lại chỉ chiếm 4,5% tổng vốn viện trợ ODA
Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã ký kết giai đoạn 2011 - 2015 chỉ đạt 27,78 tỷ USD, cao hơn 31% thời kỳ trước đó; trong đó, vốn vay ODA không hoàn lại chỉ đạt 1,25 tỷ USD, chiếm 4,52% so với tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã ký kết.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, vừa có báo cáo Quốc hội về công tác quản lý, hiệu quả sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 2011 - 2015, trong đó khẳng định tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo các điều ước quốc tế cụ thể thời kỳ 2011 - 2015 đạt trên 27,782 tỷ USD, cao hơn 31,47% so với mức của thời kỳ 2006 - 2010.
Tỷ lệ vốn ODA không hoàn lại trong 5 năm (2011 - 2015) chỉ đạt 1,25 tỷ, bằng 4,5% tổng vốn. Mỗi năm, chỉ có 250 triệu USD vốn ODA không hoàn lại được ký kết.
Điều đáng chú ý là trong đó ODA vốn vay và vốn vay ưu đãi đạt 26,527 tỷ USD chiếm khoảng 95,48%, còn vốn ODA viện trợ không hoàn lại đạt 1,254 tỷ USD chiếm khoảng 4,52% so với tổng vốn.
Trước đó, trong thông báo mới nhất, Bộ Tài chính khẳng định, tháng 7/2017 Ngân hàng Thế giới sẽ xem xét việc loại bỏ vốn vay ODA đối với Việt Nam bởi Việt Nam đã và đang là nước có thu nhập trung bình. Theo đó, tỷ lệ vốn vay hoàn lại, có mức lãi suất thấp sẽ được thay thế bằng vốn ODA có lãi suất cao, thời gian vay ngắn hơn và không có thời gian ân hạn trả lãi.
Về trả nợ, theo báo cáo của Bộ Tài chính, mức trả nợ của Việt Nam hiện là 1 tỷ USD/năm, mức trả nợ nằm trong giới hạn cho phép của GDP.
Dựa vào báo cáo của Bộ KH&ĐT, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho hay: Hiện có 6 ngân hàng đã và đang cho vay ODA lớn nhất đối với Việt Nam, trong đó có Ngân hàng Thế giới (WB); Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB); Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA); Ngân hàng KEXIM (Hàn Quốc); Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và Ngân hàng Tái thiết Đức (KFW) chiếm vị trí vượt trội. Tổng giá trị vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi ký kết với các nhà tài trợ này trong thời kỳ 2011 - 2015 đạt khoảng 26,308 tỷ USD, trong đó vốn vay ưu đãi của ADB, AFD và WB khoảng 4,5 tỷ USD.
Bộ Trưởng Dũng khẳng định: Về cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi theo ngành và lĩnh vực, giao thông vận tải, môi trường (cấp, thoát nước, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh,...) và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp là những ngành có tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi tương đối cao.
Trong khi đó các lĩnh vực y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, tăng cường năng lực thể chế,... chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn về tổng quy mô nguồn vốn; song lại được bù đắp bằng một lượng đáng kể vốn ODA không hoàn lại. Trong thời gian tới, nguồn vốn ODA không hoàn lại sẽ giảm mạnh, trong khi dự án trong các thuộc y tế, giáo dục không có khả năng hoàn vốn, do vậy rất khó sử dụng vốn vay, nhất là vốn vay ưu đãi.
Về công tác giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi, trong giai đoạn này ước đạt 22,325 tỷ USD (bình quân khoảng 4,46 tỷ USD/năm). Mức giải ngân này cao hơn từ 39,53 - 59,46% so với mục tiêu đề ra trong Đề án ODA 2011 - 2015 và cao gấp 1,6 lần tổng vốn ODA giải ngân trong thời kỳ 2006 - 2010. Giải ngân của các nhà tài trợ quy mô vốn lớn (WB, Nhật Bản) đã có những cải thiện đáng kể.
Tỷ lệ giải ngân của Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ hai và năm 2012 đứng thứ nhất trong số các nước nhận ODA của Nhật Bản, tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.
Theo báo cáo hoàn thành dự án (PCR) và Báo cáo kiểm toán thực hiện hoàn thành dự án (PPAR) do các nhà tài trợ nhóm 6 Ngân hàng Phát triển thực hiện đến hết năm 2014, số lượng các dự án thành công của Việt Nam chiếm tỷ lệ cao, số dự án thành công của ADB: 55/56, JICA: 17/17, KEXIM: 5/5, WB: 67/69, số dự án thành công của ADB: 11/16, KfW: 20/26, KEXIM: 16/16, WB: 63/69. Số lượng các dự án hoàn thành kết quả phát triển và đạt các mục tiêu đề ra của Việt Nam tính đến hết năm 2014 đứng thứ hai sau Trung Quốc và đứng trên Ấn Độ, Philipines, Indonesia và Pakistan.
Nguyễn Tuyền
Theo Dantri
Một loạt bộ ngành và dự án b.ị t.ố "ngâm" giải ngân vốn vay ODA Mức giải ngân vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các vốn vay ưu đãi khác trong 9 tháng đầu năm 2016 không đồng đều giữa các bộ, ngành và địa phương. Trong đó, đáng chú ý nhiều nơi, giải ngân số vốn được phê duyệt rất thấp, không đạt yêu cầu đề ra, làm chậm phát triển và hoàn chỉnh...