Hàng Ngang
Phố dài 152 mét, đi từ phố Hàng Đường đến phố Hàng Đào thuộc quận Hoàn Kiếm.
Vốn là đất phường Diên Hưng cũ. Tên gọi Hàng Ngang có nhiều cách giải thích, tên là Hàng Ngang là có thể ở hai đầu phố có ngõ chắn ngang để tiện bảo vệ?
Thời trước năm 1945, phố Hàng Ngang là phố người Quảng Đông (rue des Cantonnais). Từ thời Lê do nhiều người dân Trung Quốc đến làm ăn nên có tên gọi là phố Việt Đông.
Về mặt nhân chủng, phố Hàng Ngang là đường phố có hai bộ phận dân cư là người Việt Nam, người Minh Hương, người Hoa kiều. Thời phong kiến, triều đình Việt Nam – Hậu Lê và Nguyễn – định ra luật cư trú cho người ngoại quốc rất nghiêm. Theo lệ cũ, người Hoa được tổ chức thành ” bang”, tập trung vào mấy nơi ở Hà Nội là Việt Đông (Hàng Ngang) và Hà Khẩu ( Hàng Buồm), hết thời hạn phải về Tầu, nếu tình nguyện ở lại phải thay đổi y phục, phong tục theo người Việt Nam. Như vậy người Minh Hương tổ tiên sang ở nước ta lâu đời rồi, con cái đã Việt hoá nhiều. Người Minh Hương mang y phục Việt nam, học trường Việt Nam cũng thi đỗ tú tài cử nhân, cũng có người ra làm quan; họ có quan hệ họ hàng với cả ta và Tàu.
Nhiều họ lớn người Minh Hương ở Hàng Ngang như họ Phan, anh em họ hàng đều là chủ hiệu tơ lụa lớn, như Phan Vạn Thanh, Phan Dụ Thành, Phan Đức Thành. Họ buôn bán tơ lụa, có người lại làm cả mại bản cho mấy công ty nhập cảng vải sợi của Pháp nên càng có thế trong nghề đó. Người Minh Hương ở đây đã đem việc cúng lễ của Tàu pha vào với việc cúng lễ của người Việt Nam, như lập hội dựng đền Tam Thánh thờ Quan Công ở Ngọc Sơn cùng với Trần Hưng Đạo trong đó.
Video đang HOT
Buôn bán ở Hàng Ngang phải là những nhà giàu lớn. Ngoài họ Phan người Minh Hương, người Việt Nam có Trịnh Phúc Lợi (nhà số 7), Lợi Quyền (nhà số 27) cũng bán tơ lụa. Hàng tơ lụa bán ở phố này đều là thứ xếp loại cao cấp: gấm vóc, đoạn, nhiễu, sa tanh…
Hàng Ngang nổi tiếng có mấy hiệu chè Tàu: Sinh Thái, Chính Thái, Ninh Thái, Song Hỷ. Vào phố này, người ta còn thấy những cửa hiệu cao đơn hoàn tán, họ làm đại lý cho các hãng thuốc Đông Y sản xuất ở Hương Cảng, Thượng Hải, Tân Gia Ba, Chợ Lớn.
Ngoài ra, phố Hàng Ngang có mấy cửa hiệu tạp hoá, họ bán cả đồ sứ Giang Tây và chụp ảnh. Hàng Ngang còn vài cửa hiệu vàng bạc, một số cửa hàng bán đồ thời trang. Phố Hàng Ngang còn vài ba cửa hiệu bán vải của người ấn Độ từ Hàng Đào tràn sang nhưng cũng chỉ ở quanh ngã tư mà thôi.
Nói chung, trước năm 1925, có thể nói rằng phố Hàng Ngang là phố buôn bán của người Tàu tức là Hoa Kiều và Minh Hương. Trong những năm 1927 – 1930 có một số cửa hiệu của người Việt Nam do xảy ra hai ba vụ tẩy chay cửa hiệu người Hoa, phong trào từ cảng Hải Phòng lan đến Hà Nội. Dần dần các cửa hiệu người Hoa thu hẹp dần.
Về mặt xây dựng, phố Hàng Ngang cũng thay đổi nhanh chóng, nhất là trong thời kỳ kinh tế phục hồi sau 1932 và phát triển trong thời kỳ 1935 – 1939. Tình hình nhà cửa phản ánh giá nhà và đất ở một phố buôn bán sầm uất nhất của Hà Nội; giá nhà cho thuê mở cửa hàng cao nhất.
Phố Hàng Ngang có một ngôi nhà được xếp hạng di tích lịch sử cách mạng, đó là ngôi nhà số 48, nhà của Trịnh Phúc Lợi, nơi mà năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến ở và làm việc những ngày sau Cách mạng tháng Tám và đã ra bản ” Tuyên ngôn Độc Lập” tại đây. Chiến sự năm 1946 – 1947 không làm đổ nát nhà cửa ở phố Hàng Ngang vì đây là phố có nhiều Hoa Kiều được quân Pháp tránh không tàn phá.
Theo Bưu Điện Việt Nam
Hàng Bè
Phố dài 172 mét, đi từ phố Hàng Mắm đến phố Hàng Dầu.
Thôn Nam Hoa thuộc tổng Hữu Túc là tên cũ đất phố Hàng Bè bây giờ; thôn Nam Hoa sau đổi tên là Nam Phố và tổng Hữu Túc cũng đổi là tổng Đông Thọ. Hàng Bè còn một ngôi đình ở chỗ số nhà 29 gọi là đình Ngũ Hầu thờ Cao Tứ một vị tướng của triều Thục An Dương Vương. Ngũ Hầu là một làng vạn, đình ở ngoài đê, đến khi dòng sông ra xa thì làng chài cũng lênh đênh theo và đình vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Hàng Bè là một khúc của con đê cũ, khi dòng chảy còn ở sát chân đê, các bè gỗ nứa lá song mây, những vật liệu làm nhà từ miền ngược trở về áp vào đây bán. Do đó khúc đê này có tên là Hàng Bè, chợ trên đê là chợ Hàng Bè.
Khi bè mảng không vào được sát chân đê nữa vì cát bồi đưa sông ra xa, thì phố này là nơi buôn bán cau, nên cũng có tên là phố Hàng Cau.
Trước kia, hàng năm thuyền mành từ miền trong ra đem hàng như đường Quảng, vây cá, tôm he, cá khô, nước mắm, cau khô của Qui Nhơn, Bình Định; khi về họ chở vào; bát ăn cơm, giấy hàng mã, vải, nồi đồng, mâm thau. Thuyền đinh lớn to mấy gian, bên trong có cả hoành phi câu đối, khám thờ, tủ chè và nuôi cả gà chó. Lái buôn người Việt Nam - và cả lái buôn người Tàu - đem hàng ra từng kiện, chứa trong kho những nhà chứa trọ phố Hàng Bè tất nhiên là sầm uất cho đến khi lòng sông lùi ra xa, một con đê mới đắp ở cách xa đê cũ, nứa gỗ chuyển đến nơi khác, và cau thì vẫn đem bán ở đây. Con đê mới nói trên có đoạn tên là Bè Thượng, khi người Pháp mới đến Hà Nội, họ vẽ bản đồ ghi là Rue de la Digue (phố Trên Đê), tức là con đường Nguyễn Hữu Huân bây giờ.
Đoạn đầu phố Hàng Bè có một thời được gọi là phố Hàng Cau. Những năm thập niên 20 và 30, các cửa hàng bán cau tươi, cau khô ở Hàng Bè chiếm gần nửa tổng số nhà ở phố này. Những nhà buôn to có Phúc Lợi (số 18), Thịnh Phát (số 4). Hàng Bè có bốn năm nhà bán sơn sống Phú Thọ ở gần ngã tư Cầu Gỗ là phố chuyên buôn bán sơn. Ngoài ra trong phố có độ dăm nhà mở cửa hàng bán đồ khô vì ở gần chợ. Hiệu bánh gai Đan Quế (số 24) khai trương năm 1940. Những nhà mở cửa hàng nhỏ bày bán tương cà mắm tép mắm rươi là mãi sau năm 1954 mới có.
Nói chung Hàng Bè thời kỳ xa lòng sông không có nhà nào buôn bán vào loại lớn. Việc buôn bán cau, sơn ở trong tay phụ nữ, đàn ông đi làm. Những nhà không buôn bán, con cái đi làm, ban ngày đóng cửa.
Tuy nhiên phố Hàng Bè cũng có nhà giàu lớn, họ làm giàu về nghề thầu khoán. Như Trương Trọng Vọng, thàu đá kè đê ở các tỉnh; Hàn Tính cũng là thầu khoán, có cổ phần trong một công ty nấu rượu ở Hà Đông.
Đinh cơ Trương Trọng Vọng ở số 42 Hàng Bè, gồm nhiều lớp, bên trong có cả nhà thờ họ (nay là Trường phổ thông cơ sở Bắc Sơn). Nhà xây vào năm 1925 - 1926; chỗ đó trước là một bãi đất trống, làm chỗ tụ họp hàng rong bán rau cỏ tôm cá. Nhà Phúc Lợi số 18 của ông Cả Tụng là một ngôi nhà rộng lòng sâu. Nhà số 10 là nhà của bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết làm vào năm 1938.
Theo Bưu Điện Việt Nam
Hàng Bạc Phố dài 280 mét, kéo dài từ Hàng Mắm đến đoạn nối với Hàng Ngang, Hàng Đào. Phố được hình thành từ thế kỷ 18. Đời Hậu Lê chỗ này là đất thuộc giáp Nỗ Hạ phường Đông Các; đến nửa đầu thế kỷ 19 là đất các thôn Đông Thọ và Dũng Hãn, thuộc tổng Hữu Túc; sang giữa thế kỷ 19...