Hàng Cót
Phố dài 404 mét, đi từ phố Phan Đình Phùng đến phố Hàng Gà. Phố Hàng Cót và phố Hàng Gà cùng ở trên một con đường cũ có sẵn từ xưa.
Khu vực này gần Bến Nứa, trong phố có nhiều nhà làm nghề đan cót bán; người đan cót làm việc ở ngoài vỉa hè. Nguyên đây là đất của thôn Tân Lập – Tân Khai, tổng Tiền Túc (sau đổi thành Thuận Mỹ), thôn này thành lập từ năm 1822 (tức năm Minh Mạng thứ 3).
Và cũng như Hàng Gà, trước 1920, đa số nhà trong phố là nhà một tầng kiểu cổ, rất ít nhà hai tầng. Riêng có một ngôi nhà lớn được xây dựng khá sớm, ban đầu là nhà hát sau dùng làm trường học. Lai lịch ngôi nhà đó như sau: nhân có hội chợ năm 1887 ở Tràng Thi, một công ty người Tàu đứng tên người Pháp là bác sĩ Nico, xây một nhà hát diễn tuồng Tàu, thỉnh thoảng cho Tây thuê biểu diễn ca nhạc và làm sân khấu cho những gánh hát lưu động ở Pháp sang. Tháng 3 năm 1888 cháy lớn ở Hàng Cót, may nhà hát không việc gì. Đến 1916, thành phố lấy ngôi nhà đó làm một trường nữ học cho Khu Bắc, gọi là trường Brieux, tên thông thường là trường Hàng Cót.
Di tích thờ tự cũ trong phố Hàng Cót có đình Ngũ Giáp (ở số nhà 54); thôn Tân Khai còn một ngôi đình cũ nữa ở đầu Hàng Cót (số nhà 4), bị hư hỏng nặng và bị phá khoảng năm 1920, bán cho tư nhân xây nhà. Cạnh đình Ngũ Giáp có một ngôi đền thờ Chư Vị gọi là đền Nam Phủ. Chùa Pháp Bảo Tạng (số nhà 44) mới xây gần đây trong những năm tạm chiếm 1948 – 1954 để chứa những bản mộc in Kinh Phật.
Phố Hàng Cót được mở mang từ thập niên ba mươi, bốn mươi; nhiều nhà kiểu mới to đẹp bắt đầu được xây dựng ở đây. Đường xe điện Kim Liên – Yên Phụ đặt năm 1935 đi qua Hàng Gà – Hàng Cót lên Hàng Than.
Video đang HOT
Có thể chia Hàng Cót ra làm hai đoạn:
- Đoạn đầu từ vườn hoa Hàng Đậu đến cầu Sắt. Đoạn này không dài nhưng lại có nhiều nhà lớn kiểu Villa làm vào những năm sau 1930. Chủ nhà đất xuất thân quan lại (Hoàng Gia Luận, số 2 – Gia đình Bùi Đình Tịnh số 14 – 16) hoặc công chức cao cấp (bác sĩ An số 4 – Trương Văn Thiện số 7); cũng có công chức sơ cấp lương ít nhưng tằn tiện, con cái được học hành làm nên.
- Đoạn cuối phố, từ Cầu Sắt đến ngã tư Hàng Gà – Hàng Vải: đây là một phố cũ lại ít người giàu lớn nên nhà cửa xây từ xưa còn lại đều nhỏ hẹp kiểu cổ; những ngôi nhà lớn ở đoạn này là của người có tiền ở phố khác đến tậu đất làm nhà mới. Dãy bên số lẻ đến nay vẫn còn lại nhiều nhà một tầng và ít nhà hai hoặc ba tầng. Bên số chẵn, ngoài một số đền chùa vốn xây dựng trên những khoảng đất rộng, có những ngôi nhà lớn hoặc nhỏ nhưng nhiều tầng kiểu mới. Thí dụ: villa to của bác sĩ Ngô Trực Tuân ở ngay ngã ba Cầu Sắt (số 20), nhà hộ sinh Hàng Cót (số 40), nhà Lê Quảng Long (số 50), tư sản có cửa hiệu may Tây Hàng Đường, xây nhà ở đây để gia đình ở.
Phố Hàng Cót không phải là một phố buôn bán, mấy cửa hàng lơ thơ trong phố chỉ là những cửa hàng xén lặt vặt phục vụ những cái cần thiết hàng ngày cho người trong phố, khách mua hàng chỉ mấy bước chân là vào đến chợ để mua sắm có đầy đủ hơn. Người thuê nhà ở Hàng Cót đa số cũng chỉ là công chức, nhân viên sở tư. Một số phòng khám bệnh tư của bác sĩ Việt Nam và một nhà hộ sinh vào loại lâu đời nhất của Hà Nôị: nhà hộ sinh của bà đỡ Tiến (số 40). Một nhà cho thêu xe đám ma Louis Chức (số 13).
Một hiệu thợ may Tây (Tân Hưng số 17). Một hiệu ảnh Rolleie photo (số 60). Một xưởng chữa mấy nhỏ (Rozier số 2). Mấy trương tư thục (trường Trí Đức số 65, trường Nguyễn Văn Tòng số 46 – 48, trường Thăng Long số 9 – 11 và số 2).
Theo Bưu Điện Việt Nam
Hàng Buồm
Phố dài 300 mét, đi từ phố Đào Duy Từ đến phố Hàng Ngang. Nguyên là đất phường Hà Khẩu, đầu thế kỷ 19 thuộc về tổng Tả Túc huyện Thọ Xương.
Từ lâu tại kinh đô Thăng Long, triều đình phong kiến đã qui định luật lệ cư trú và địa điểm cư trú cho người nước ngoài, chủ yếu là Hoa kiều, nơi đó là phường Diên Hưng. Phố người Hoa kiều này, sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi gọi là phường Đường Nhân (phố người Tàu) bán áo diệp.
Đại Nam nhất thống chí gọi là phố Việt Đông. Như vậy Hàng Buồm ban đầu chưa phải là nơi tập trung của Hoa kiều; họ ở phố Việt Đông (nay là Hàng Ngang) rồi ở lan sang mấy phố chung quanh đó như Hàng Bồ, phố Phúc Kiến (Lãn Ông) rồi đến Hàng Buồm. Nghề sở trường của họ là buôn bán mà Hà Khẩu - tên cũ là Giang Khẩu - lại có vị trí trên bến dưới thuyền thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá với các địa phương, nên đã trở thành khu vực cư trú chính của họ.
Chắc chắn sự có mặt của Hoa thương ở Hàng Buồm rất sớm và phố này bắt đầu thành một phố Tàu có lẽ từ thế kỷ thứ 19.
Phường Hà Khẩu khởi thuỷ là thôn xã Việt Nam, cư dân ở đây sát bên sông Nhị và trên bờ sông Tô Lịch hầu hết sống bằng nghề liên quan đến sông nước; người phố Hàng Buồm mua nhiều nguyên liệu cói của thuyền buôn Sơn Nam Hạ, họ có nghề làm và bán các hàng cói đan như bị, giỏ, chiếu, buồm và một thứ mành mành buồm cũng đan bằng cói, có nẹp tre, những nhà có người mắc bệnh đậu mùa mua về che vào cửa.
Khi người Pháp đặt chân lên Bắc Kỳ (năm 1872), lái buôn Jean Dupuis đem lính thổ phỉ Cờ Vàng và lính Tàu Vân Nam ngang ngược vào Hà Nội làm việc buôn bán trái phép, thì Hàng Buồm đã đông nhà buôn Hoa Kiều, họ buôn bán lớn, đã có nhà Hội Quản. Nhiều tên lái buôn người Hoa bất chấp luật pháp của triều đình, lén lút cung cấp hàng hoá, lương thực cho Jean Dupuis; rồi từ giao dịch trái phép đến giúp đỡ làm gián điệp tiếp tay cho quân xâm lược. Đã thế quan lại Hà Nội lại dùng đám hoa thương làm chung gian để thương lượng với địch. Hội Quản Hàng Buồm là nơi gặp mặt của đại biểu hai bên.
Vì thế mà những năm biến động 1873 và 1882, Hà Nội trải mấy phen binh hoả, quân Pháp hai lần hạ thành trì, chúng đánh nhau với quân Cờ đen ngay trong thành phố Hà Nội sau vụ Cầu Giấy tháng 5/1882, các phố của người Việt Nam ít nhiều đều bị đốt phá cướp bóc, riêng chỉ có mấy phố của người Hoa Kiều vẫn được an toàn nguyên vẹn. Hoa kiều được quan Pháp bảo vệ để làm chỗ dựa, Hoa kiều được quân Cờ đen nể nang vì cùng giống người Tàu; bọn giặc đứa nào muốn phá nhà cướp của cũng nhằm vào phố xá Việt Nam, ở đó dân chúng đã chạy loạn bỏ nhà về quê. Khu người Tàu ở Hàng Ngang - Hàng Buồm, vẫn giữ được cái cảnh đông vui ồn ào. Họ có cổng dựng chắc chắn ở đầu phố, có người canh gác ban đêm.
Những năm đầu thời kỳ Tây mới đến Hà Nội, họ chưa xây dựng được gì, thì nhà Hội Quản Hàng Buồm thường được bọn quan chức Pháp mượn làm chỗ hội họp, tiếp tân khi có đại lễ; họ thuê rạp hát Hàng Cót của người Tàu để diễn kịch.
Hoa thương lợi dụng tình hình chính trị và xã hội, làm giàu nhanh chóng; họ ở chật cả Hàng Buồm; họ biến Hàng Buồm thành một "phố khách". Người Việt Nam gốc trong phố phải dọn nhà dần sang phố khác ở, nhượng lại cho Hoa kiều có nhiều điều kiện kinh tế hơn.
Phố Hàng Buồm được nhiều người nhớ vì nơi đây có đền Bạch Mã ở số nhà 76 hiện nay. Theo truyền thuyết thì đền này do Cao Biền lập nên trong thời gian cai trị nước ta, sau một lần thần Long Đỗ hiện lên làm y hoảng sợ. Khi xây dựng, đền gọi là đền Long Đỗ, về sau ngựa trắng từ đền đi ra giúp vua Lý Công Uẩn xây thành nên được vua đổi tên là đền Bạch Mã.
Đất Hà Khẩu - Hàng Buồm xưa là quê ngoại của một nữ sĩ lừng danh, Hồng Hà Đoàn Thị Điểm. Bà là một trong những nữ sĩ lừng lẫy nhất văn đàn cho đến nay, ngoài ra còn nổi tiếng với giai thoại về câu đối khiến cho Trạng Quỳnh cũng bó tay: Da trắng vỗ bì bạch! Không biết những người yêu thích và thường tham gia mục Mất Giấc Ngủ Trưa của Cười 24H có ai từng thử đối câu này chưa?
Thời Pháp thuộc, phố đã có tên "rue des Voiles", nghĩa là "phố Hàng Buồm"!
Theo Bưu Điện Việt Nam
Hàng Bông Phố dài 932 mét, nối phố Hàng Gai với phố Cửa Nam. Hàng Bông là phố gộp nhiều phố. Đoạn từ Hàng Gai đến Hàng Mành gọi là Hàng Hài; từ Hàng Mành đến Hàng Da là Hàng Bông Đệm; tiếp đó là Hàng Bông Cửa Quyền có miếu nhỏ thờ một cô gái tên là Quyền; đoạn còn lại, từ ngõ Hội...