Hàng Bông
Phố dài 932 mét, nối phố Hàng Gai với phố Cửa Nam. Hàng Bông là phố gộp nhiều phố.
Đoạn từ Hàng Gai đến Hàng Mành gọi là Hàng Hài; từ Hàng Mành đến Hàng Da là Hàng Bông Đệm; tiếp đó là Hàng Bông Cửa Quyền có miếu nhỏ thờ một cô gái tên là Quyền; đoạn còn lại, từ ngõ Hội Vũ đến Cửa Nam, trước kia gọi là Hàng Bông Lờ (trước nữa thì gọi là phố Hàng Lam, sự thay đổi này tùy theo nghề phổ biến của dân ở phố theo từng giai đoạn).
Cái tên Hàng Bông của con phố dài gần 1km kiện nay chính thức được gọi chỉ mới dăm chục năm nay. Nhưng chữ Hàng Bông đã được gọi từ rất lâu, có lẽ là gọi tắt của một trong đoạn phố tên có chữ Hàng Bông. Trong Thượng Kinh ký của Lãn ông Lê Hữu Trác có chép khi ông qua cửa Đại Hưng, rẽ sang tay phải tức là đi vào đường Hàng Bông.
Trước đó nữa, vào thế kỷ 17 – 18, chắc hẳn đường Hàng Bông đã là một phố tương đối sầm uất, nên khi chúa Trịnh và vua Tây Sơn mấy lần tiếp sứ thần nhà Thanh đến Thăng Long, ta đã sắp xếp để sứ đoàn ở bến Bồ Đề qua sông sang bến Kiên Nghĩa rồi theo lối Hàng Buồm sang Hàng Ngang (Hàng áo), Hàng Đào qua Hàng Gai (Hàng Túi), Hàng Hài (ngã ba Hàng Gương), Hàng Bông Đệm (Chợ Huyện), đến Hàng Bông Lờ (Cấm Chỉ), rồi do vườn Quảng Văn Đình (Cửa Nam) mà vào cửa Vò Vò (Đoan Môn) để đến nội điện. Qua đó ta thấy về thờ Hậu Lê, con đường Hàng Bông gồm nhiều phố, nhân dân ở đây làm nghề thủ công (khâu túi, giày, nhuộm, làm gương soi…) có cửa hàng buôn bán, trong phố có chợ (Chợ Huyện).
Trên trục đường Hàng Bông còn nhiều di tích nhiều đình chùa miếu mạo của những phường thôn cũ. Không kể bến Hàng Gai có đình Đông Hà (nhà số 46), đình Cổ Vũ (số nhà 85) và đình Tố Tịch (số 1 Tố Tịch), bên Hàng Bông và mấy phố ngang liền cạnh có những di tích như sau:
Video đang HOT
Hàng Hài: đình Kim Cổ (còn có tên là đền Phúc Hậu) thờ ông tổ nghề làm gương soi (nhà số 2).
- Hàng Hài có một trường học đại tập (cuối đời Nguyễn) của cử nhân Ngô Văn Dạng (1835 – 1885) người thôn Kim Cổ. Ông đã từng tổ chức các sĩ phu quanh vùng thành đội nghĩa quân đánh Pháp năm 1873.
- Hàng Bông Đệm, ngõ Yên Thái, ngõ Tạm Thương, phố Đường Thành có: đình Yên Thái thờ bà phi ỷ Lan; đền bà Chúa (Liễu Hạnh) và Chư vị trong ngõ Tạm Thương;
- Chùa Kim Cổ, trong cũng thờ bà phi ỷ Lan, ở số 73 Đường Thành; Đình Lương Ngọc, nơi thờ vọng thành hoàng làng của người Lương Ngọc tỉnh Hưng Yên;
- Đình Kim Hội do các nhà buôn bông dựng lên ở ngõ 95 Hàng Bông thờ Trần Hưng Đạo; đình này còn có tên là đình Quy Long.
- Hàng Bông Cây Đa Cửa Quyền có: đền Thiên Tiên và quán Vọng Tiên ở số nhà 120. Trong đền Thiên Tiên có bài vị có lẽ là thờ Lý Thường Kiệt (vì trong sắc phong ghi là Lý thái úy) và một tấm bia đá. Bên ngoài đền Thiên Tiên có một bộ phận là đền của tư nhân, gọi là Đền Tàu, đất tư của một người đàn bà vợ khách, thờ Chư vị. Đình Đông Mỹ ở nhà số 127, do một nhóm lái buôn lớn lập ra để hội họp tế lễ; chỗ thờ đặt ở trên gác, nhà dưới cho thuê mở cửa hàng lấy hoa lợi.
- Cạnh đó, Hàng Da có đền Tam Thánh (số 42), phố Hội Vũ có đình Hội Vũ (số 2).
Những người thích đọc sách, báo, thích làm thơ (dù chỉ là thơ hài nhè nhẹ như Cười 24H) hẳn không thể không ấn tượng khi biết Hàng Bông là phố gắn bó với sách báo. Đây là nơi đánh dấu sự ra đời của Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Tao Đàn, Ích Hữu, Truyền bá… và nhà xuất bản Tân Dân lừng danh một thời.
Theo Bưu Điện Việt Nam
Hàng Đào
Phố Hàng Đào dài 260 mét, đi từ phố Hàng Ngang đến phố Hàng Gai. Trong ghi chép về câu ca dao 36 phố phường của Dương Quảng Hàm có nhắc đến "Hàng The" (bán the, lụa...), hiện nay chúng tôi hầu như không thấy tài liệu nói về "Hàng The", không biết Hàng Đào và Hàng The có liên quan đến nhau không???
Phường Đại Lợi tập trung người làng Đan Loan chuyên nghề nhuộm tơ lụa có từ thời Trần - Hồ, qua thời hậu Lê thì đã sầm uất (theo địa dư chí của Nguyễn Trãi). Phố Hàng Đào tất nhiên cũng hình thành rất sớm dọc trên con đê gần Hồ Gươm. Những biến cố chính trị cuối thế kỷ 18 đã ảnh hưởng đến khu phố này.
Theo sách "Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ có kể đến quang cảnh phồn hoa của mấy phố Hàng đào - Hàng Bạc buôn bán giàu có, đồng thời cũng là nơi bày ra những thói nhũng nhiễu của bọn có quyền thế và thủ đoạn lừa lọc của bọn lưu manh. Sau ngót năm mươi năm phục hồi ở nửa đầu thế kỷ 19, lại đến những sự biến của những năm 1873 và 1882 làm dân cư phải thất tán, buôn bán đình trệ, để rồi chờ tình hình tạm yên lại trở về làm ăn.
Cho đến thế kỷ 20, phố Hàng Đào vẫn thua kém phố Hàng Ngang (Phố của người Minh Hương và khách trú Quảng Đông), mặc dù Hàng Đào là phố giàu nhất Việt Nam. Tại đây không có nhà nào xây dựng to lớn, nhà ngói vẫn còn lẫn nhà tranh. Một số ít nhà có gác thấp, cửa sổ nhỏ trông xuống phố kín đáo. Một phố dài chừng hai trăm năm mươi mét mà hai bên mặt phố có tới dăm chục nóc nhà, tức là đổ đồng bè rộng của mỗi cửa hàng trung bình chỉ có dăm thước. Bên phía Tây là dãy số chẵn, bên phía Đông là dãy số lẻ, cửa ngoài thì ngang với mặt đường, nhưng càng đi sâu vào trong nhà, mặt đất càng thấp xuống, lý do là phía bên đó nguyên là giải hồ rộng cũ được lấp đi, mặt hồ so với mặt đê, tất nhiên thấp hơn. Phía bên phải (số chẵn) không có cống thoát nước thải, hay bị ứ đọng nước.
Cũng như tất cả các phố thời ấy, trên cao thì có những mái nhà nhấp nhô mái cao, mái thấp không đều, phía ngoài cửa thì so le, nhà nhô ra thụt vào; phố chưa có vỉa hè, lát đá lổn nhổn. Nhiều nhà cổ vẫn còn sót lại đến ngày nay. Hàng Đào vẫn được coi là phố chính của Hà Nội. Phố Hàng Đào là nơi buôn bán lụa là vóc nhiễu với nhiều màu sắc đẹp đẽ, và người Hàng Đào vẫn được tiếng là người thanh lịch, con người của "kinh kỳ" kiểu cách đến thành cầu kỳ hào nhoáng.
Là phố buôn bán có từ lâu đời và buôn bán những thứ hàng đắt tiền, Phố Hàng Đào có nhiều nhà giàu, vốn liếng to. Có những gia đình sinh sống qua nhiều thế hệ ở phố Hàng Đào, số đông là người gốc làng Đan Loan (họ Phạm, họ Lê), làng Đình Loan (họ Nguyễn), làng Đông Cao (Bắc Ninh); họ Vũ Đông Cao ít ra cũng đã có tới bốn năm đời. Những gia đình nhà nho quan lại quý tộc thường thông gia với nhau; nhà giàu kén rể làm quan để thêm danh giá, cũng như người ta đã có danh vị muốn có vợ nhà giàu. Cho cả mãi đến những năm thập niên 30 - 40 mới đây, con gái Hàng Đào còn truyền nhau khẩu hiệu: "Phi cao đẳng bất thành phu phụ", con gái Hàng Đào khá đông trở thành bà Phủ bà huyện, vợ bác sĩ kỹ sư, dược sĩ, xoàng thì cũng là bà tham bà phán. Mà con gái Hàng Đào vẫn được tiếng là xinh đẹp, ăn mặc lịch sự, thêm là con nhà gia thế.
Hàng Đào thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 còn là phố chỉ buôn tơ bán hàng tấm. Nghề buôn tơ sống cốt tinh mắt đánh giá được chất lượng khi tơ chưa khô, mua thế nào để có lãi; các bà mới giàu kinh nghiệm. Những nhà buôn thuần tơ không mở cửa hàng. Hàng mua cất trong nhà, người các làng Hà Đông mua về dệt, vào tận trong nhà xem hàng ăn giá. Cửa hàng tấm cũng đơn giản: ngả cánh cửa lùa kê lên mễ, bên ngoài bày vài cái thạp chè cũ, trên treo những giải lụa màu sặc sỡ. Bên trên cửa có chiếc màn vải che nắng. Quanh tường là tủ đựng hàng, trong xếp những cuốn vác nhiễu giả (chỉ có lượt ngoài trong là lõi giấy) làm quản cáo, còn hàng thật thì đựng trong những bao sơn để ở trong cùng, có khách hỏi mua mới lấy ra. Các bà các cô bán hàng ngồi trên bục bên trong; cạnh cửa là "cô ngồi hàng", tức là những cô gái làm công chào khách, ngày đến làm, tối về nhà mình.
Theo Bưu Điện Việt Nam
Mã Mây Phố dài 268 mét, đi từ phố Hàng Buồm đến phố Hàng Bạc. Mã Mây thời xưa là hai phố tên gọi khác nhau: Hàng Mây và Hàng Mã. Về sau có thêm phố Hàng Mã gần chợ Đồng Xuân nên người ta gọi Hàng Mã mới là "Hàng Mã trên", và Hàng Mã thuộc Mã Mây bây giờ là "Hàng Mã dưới"....