Hai phương án đường sắt cao tốc Bắc Nam
Đơn vị tư vấn đề xuất xây dựng đường sắt 350 km/h và chỉ chở khách, tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng nên lựa chọn phương án khác chở được cả người và hàng hóa.
Trong báo cáo nghiên cứu khả thi đường sắt tốc độ cao Bắc Nam, Bộ Giao thông Vận tải đề xuất thực hiện phương án nâng cấp đường sắt hiện hữu khổ 1.000 mm chủ yếu để chạy tàu hàng; đồng thời, xây mới tuyến đường sắt tốc độ cao 350 km/h (chỉ chở khách, không chở hàng). Lộ trình xây dựng theo 2 giai đoạn với tổng vốn đầu tư 58,7 tỷ USD.
Để phục vụ thẩm định dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề nghị Bộ Giao thông Vận tải bổ sung thêm phương án đầu tư mới tuyến đường sắt với dải tốc độ từ 160 km/h đến dưới 200 km/h, tốc độ thấp hơn phương án nêu trên song chở được cả hành khách và hàng hóa.
Hai phương án đường sắt cao tốc Bắc Nam. Đồ họa: Tạ Lư
Về hai phương án trên , ngày 31/3, đại diện Tổng công ty Tư vấn Thiết kế Giao thông Vận tải (Tedi – cơ quan tư vấn dự án đường sắt tốc độ cao Bắc Nam) cho rằng, tuyến đường sắt 160 – 200 km/h không phải là công nghệ đường sắt tốc độ cao theo định nghĩa của Hiệp hội Đường sắt quốc tế (quy định tàu tốc độ cao phải đạt trên 250 km/h với tuyến xây mới).
Trong khi đó, chiến lược phát triển của ngành đường sắt mà Chính phủ đã phê duyệt đã xác định xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao với hạ tầng thiết kế chạy tàu đạt tốc độ 350 km/h.
Hiện nay, tuyến đường sắt Bắc Nam khai thác 18-25 đôi tàu hàng ngày chở khách và hàng hóa, đang được cải tạo nâng tốc độ lên 80 km/h. Khi có tuyến đường sắt tốc độ cao, thì tuyến đường sắt cũ sẽ dành chạy tàu hàng, không cần thiết đầu tư thêm tuyến đường sắt mới để chở hàng.
“Việc đầu tư, khai thác đồng thời 2 tuyến đường sắt (mới và cũ) chở khách, hàng hóa trên cùng một hành lang không phải là phương án hiệu quả”, đại diện Tedi nêu quan điểm.
Ngoài ra, mức độ hấp dẫn của đường sắt phụ thuộc vào tốc độ. Đơn vị tư vấn tính toán, chặng Hà Nội – Vinh nếu khai thác tàu tốc độ 350 km/h thì thị phần vận tải hành khách đạt 93%, trong khi tàu 200 km/h đạt 85%; với chặng Hà Nội – Đà Nẵng thị phần tương ứng là 75% và 33%; chặng Hà Nội – Nha Trang là 37% và 3%.
Video đang HOT
Còn với tuyến Hà Nội – TP HCM, thị phần vận tải của tàu 350 km/h đạt 15%, trong khi loại hình 200 km/h chỉ đạt 0,3%, cho thấy gần như không thu hút được hành khách ở tốc độ này.
Bộ Giao thông Vận tải đề xuất tàu tốc độ cao Bắc Nam sử dụng công nghệ động lực phân tán giống tàu Shinkanshen ở Nhật Bản. Ảnh: Anh Duy
Đại diện Tedi cho hay, trong tháng 1/2021, đơn vị đã nghiên cứu phương án xây mới tuyến đường sắt khổ 1.435 có dải tốc độ 160 km/h đến dưới 200 km/h và nhận thấy phương án này có nhiều hạn chế .
Theo yêu cầu nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tuyến đường sắt này sẽ khai thác chung cả tàu khách tốc độ 180 km/h và tàu hàng tốc độ 120 km/h. Đây là vấn đề khó khăn về kỹ thuật, do đoàn tàu hàng sẽ phải chịu áp lực đẩy rất lớn từ đoàn tàu khách ở tốc độ cao khi gặp nhau.
Để đảm bảo an toàn, một số nước đã có những quy định không cho phép tàu khách gặp tàu hàng ở tốc độ lớn hơn 160 km/h, cũng như không cho phép hai loại tàu gặp nhau trong hầm; hàng hóa khi vận chuyển trên tàu hàng được quy định rất chặt chẽ, phải đóng trong thùng container, neo giữ tốt để tránh bị lật đổ.
Với đặc thù Việt Nam, nếu chạy chung tàu hàng và tàu khách trên đường đôi khổ 1.435 mm vào ban ngày, sẽ cần có nhiều ga để bố trí tránh tàu. Với phương án bố trí các ga xép để tránh tàu thì trên tuyến cứ khoảng 16 km đến 20 km sẽ phải bố trí một ga xép. Việc đầu tư nhiều ga xép với khoảng 75 ga sẽ dẫn đến chi phí lớn; cùng với đó là tăng quy mô mặt cắt ngang hầm, tăng tải trọng tàu nên sẽ tăng chi phí đầu tư.
Trường hợp tàu chạy từ hai chiều khác nhau trên một đường ray sẽ rất phức tạp trong điều khiển, hạn chế tốc độ và ảnh hưởng tới an toàn.
Ngoài ra, nếu theo phương án tàu hàng chạy ban đêm, tàu khách ban ngày thì mỗi ngày chỉ có 3 đôi tàu hàng hoạt động từ Bắc vào Nam, trung bình một chuyến tàu hàng chạy Bắc Nam mất 4 ngày, sẽ không đạt hiệu quả kinh tế.
“Chúng tôi chưa tính toán được tổng mức đầu tư tuyến 160-200 km/h này, song chi phí có thể tương đương đường sắt tốc độ 350 km/h, vì phải xây dựng thêm nhiều nhà ga”, đại diện Tedi nói.
Với góc nhìn chuyên gia , GS Lã Ngọc Khuê – nguyên Thứ trưởng Giao thông Vận tải, cho rằng dải tốc độ giới hạn ở mức 200 km/h là “vừa tầm” với Việt Nam hiện nay, đảm bảo rút ngắn thời gian triển khai dự án và qua đó kịp giải tỏa áp lực đối với nhu cầu vận tải hàng hóa trên trục Bắc Nam.
Theo GS Khuê, dự án tàu tốc độ 350 km/h có thể khiến Việt Nam dư thừa năng lực vận tải khách, vì có thể chuyển tải 364.000 hành khách mỗi ngày, trong khi dự báo lượng hành khách chỉ đạt 40% số lượng này vào năm 2050. Hơn nữa, tàu tốc độ 350 km/h chỉ chở khách nên vận tải hàng hóa trên trục Bắc Nam không được cải thiện.
Ông Vũ Anh Minh, Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR), cho rằng, nếu Chính phủ mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế thì nên chọn đường sắt chở cả hàng hóa và khách, tốc độ tàu khác tối đa 200 km/h, tàu hàng 120-150 km/h. Ngược lại, mục tiêu là tạo thuận lợi đi lại cho người dân thì chọn phương án 350km/h và chỉ chạy tàu khách.
“Theo tôi, phương án đầu tư tuyến đường sắt chạy cả tàu khách và tàu hàng là phù hợp. Khi nào nền kinh tế phát triển hơn, đủ để làm thêm đường sắt cao tốc chỉ chở khách thì tuyến này sẽ dành chở hàng”, ông Minh nói.
Đường sắt tốc độ cao: Không phải muốn là làm được ngay
Một số chuyên gia cho rằng, muốn hiện đại hóa đường sắt, việc đầu tư đường sắt tốc độ cao không thể chậm hơn nữa. Song, không phải muốn là làm được ngay.
Tại cuộc họp lấy ý kiến về dự thảo quy hoạch đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 mới đây, lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) cho hay, trong báo cáo cuối kỳ về dự thảo quy hoạch đường sắt, đơn vị tư vấn tính toán phương án đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao (350km/h) đoạn Hà Nội - Vinh, TP Hồ Chí Minh - Nha Trang chiều dài 651km và có thể khai thác năm 2030 nếu nhu cầu vận tải cao.
Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng, muốn hiện đại hóa đường sắt, việc đầu tư đường sắt tốc độ cao không thể chậm hơn nữa. Song, không phải muốn là làm được ngay.
Cần nghiên cứu kỹ về phương án tài chính
Theo Tổng Công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải (TEDI), báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (BCTKT) dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam đề xuất xây dựng mới tuyến đường sắt dài khoảng 1.559km, đi qua 20 địa phương, nối Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Theo đó, thời gian thực hiện dự kiến được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 2020-2030 đầu tư xây dựng đoạn Hà Nội-Vinh và Nha Trang-TP Hồ Chí Minh. Giai đoạn 2 dự kiến từ năm 2030-2040, đầu tư xây dựng đoạn Vinh-Nha Trang, trong đó đoạn Vinh-Đà Nẵng hoàn thành năm 2040, đoạn Đà Nẵng-Nha Trang có thể kéo dài tới năm 2045 với tốc độ thiết 350km/giờ, tốc độ khai thác 320km/giờ và chỉ dành cho chở khách.
Theo TEDI, dự án sẽ sử dụng công nghệ đoàn tàu sử dụng động lực phân tán; công nghệ hệ thống thông tin tín hiệu, sử dụng công nghệ truyền tín hiệu điều khiển qua sóng vô tuyến, đóng đường sử dụng phân khu di động... Tổng mức đầu tư dự án toàn tuyến là 58,71 tỉ USD; trong đó, giai đoạn 1 khoảng 24,71 tỉ USD; giai đoạn 2 khoảng 34 tỉ USD. Được đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP.
Đường sắt tốc độ cao là hy vọng của ngành đường sắt.
Ngoài đường sắt tốc độ cao, giai đoạn này sẽ xây mới 7 tuyến đường sắt và hoàn thiện tuyến cũ như Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân; vành đai phía đông Hà Nội (Ngọc Hồi - Lạc Đạo - Yên Viên - Bắc Hồng); tuyến kết nối cảng Lạch Huyện (Hải Phòng); kết nối ga Lào Cai và ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc); tuyến Biên Hòa - Vũng Tàu; Vũng Áng - Tân Ấp - Mụ Gia; TP Hồ Chí Minh - Mỹ Tho - Cần Thơ. Đến năm 2050, ngành giao thông sẽ đầu tư tiếp đường sắt tốc độ cao đoạn Vinh - Nha Trang và xây dựng mới các tuyến như Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Dĩ An - Lộc Ninh, Tháp Chàm - Đà Lạt. Đồng thời, nghiên cứu các đoạn đường sắt Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng - Hạ Long, Đắk Nông - Bình Thuận, Tuy Hòa - Buôn Ma Thuột, Cần Thơ - Cà Mau...
Theo các chuyên gia kinh tế, đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam là dự án quy mô lớn và tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước trong một vài thập kỷ tới. Do đó, mỗi nội dung dự án cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt là phương án tài chính cần được tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh theo hướng cập nhật, thêm các kịch bản phù hợp. Cùng với đó, mỗi phương án tài chính cần được xây dựng trên cơ sở cập nhật và phân tích đúng thực trạng cũng như xu hướng tăng trưởng kinh tế, chi ngân sách nhà nước, khả năng vay nợ công và vay ODA... nhằm tăng tính khả thi của mỗi phương án tài chính nói riêng và của toàn bộ dự án nói chung.
Tốc độ nào là hợp lý?
Đánh giá về dự thảo quy hoạch đường sắt nêu trên, GS Lã Ngọc Khuê, nguyên Thứ trưởng Giao thông Vận tải, cho rằng, để đảm bảo mục tiêu đề ra thì cần lựa chọn những công trình chủ yếu, cấp thiết. Đến năm 2035, trên trục dọc quốc gia cần đầu tư tuyến đường sắt tiêu chuẩn, đường đôi Lạng Sơn - Yên Viên - Ngọc Hồi - TP Hồ Chí Minh - Cần Thơ, tốc độ tối đa 140km/h.
Riêng đoạn Hà Nội - TP Hồ Chí Minh đảm bảo sau 2035 nâng cấp thành đường sắt tốc độ cao, tối đa 250 km/h. GS Khuê không đồng tình phương án xây dựng đường sắt tốc độ cao 350km/h trên tuyến Bắc Nam vì yêu cầu vốn lớn, phải nhập khẩu công nghệ, thiết bị. Ông cho rằng, lựa chọn đường sắt tốc độ 140km/h sẽ đảm bảo có tính khả thi về kinh tế, kỹ thuật của dự án, có thể làm chủ xây dựng hạ tầng và sản xuất toa xe.
Còn theo TS Phan Lê Bình - giảng viên Trường Đại học Việt Nhật - tốc độ nào để lấy được khách, phù hợp với đầu tư là quan trọng, vì tốc độ thấp khó cạnh tranh với các phương thức giao thông khác. Nhưng nếu tốc độ cao thì mức đầu tư lớn vì mức độ an toàn phải ở mức độ tuyệt đối. Ngoài sự khác biệt về công nghệ cũng liên quan đến tàu khách hay tàu hàng, chở hàng thường chở nặng đòi hỏi nền đường phải chịu được lực và đòi hỏi sự đầu tư lớn hơn. Nhưng cũng có thể những hàng hoá chuyên chở trên đường cao tốc là hàng điện tử, hàng đông lạnh không phải là xi măng, sắt thép nên cũng không phải gia cường nền đường...
Cùng quan điểm với các ý kiến trên, theo Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam - ông Trần Ngọc Hùng, chúng ta chưa đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm để triển khai tàu tốc độ cao 320km/h. Đi liền với đó là chi phí, cơ sở vật chất cho đào tạo bảo hành, sửa chữa đóng mới toa xe cũng rất lớn... Do đó, cơ quan lập dự án, thẩm định dự án cần làm rõ những vấn đề này. Trước mắt triển khai dự án bằng ngân sách nhà nước đoạn đường tốc độ cao từ TP Hồ Chí Minh đi Nha Trang. Sau khi có hiệu quả mới triển khai dự án tốc độ cao theo quy hoạch.
Trước đó tại cuộc họp ngày 16/3, Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể đã yêu cầu đơn vị tư vấn làm rõ sự cần thiết đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam trong dự thảo quy hoạch; phân tích rõ các dự báo về nhu cầu, có so sánh với năng lực của các phương tiện khác trên cùng hành lang, cự ly vận chuyển. Từ đó, định hướng, lập kế hoạch đầu tư từng giai đoạn. Đơn vị tư vấn cần hoạch định các ga đường sắt có thể kết nối với cảng biển lớn để tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa, có thể bằng đường sắt hoặc bằng đường bộ.
Đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam: Huy động nhà máy Việt Nam? Theo chuyên gia, dù công nghệ 200km hay 300km thì quan trọng nhất là phải huy động được tối đa các nhà máy ở Việt Nam chế tạo được. Bay từ Hà Nội vào TP.HCM mất 5 tiếng, đi đường sắt cao tốc mất 6 tiếng Tại toạ đàm về Thách thức và cơ hội phát triển ngành đường sắt do Cổng Thông...