Hai chiến dịch then chốt trong Chiến tranh vùng Vịnh
Quân đội Mỹ và liên quân 34 nước đã đánh bại hoàn toàn Quân đội Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh bằng 2 chiến dịch then chốt.
Với “Bão táp sa mạc” và “Thanh kiếm sa mạc”, Quân đội Mỹ và liên quân 34 nước đã đánh bại hoàn toàn Quân đội Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh.
Chỉ trong hơn 1 tháng, các lực lượng Mỹ và đồng minh đã gây thiệt hại nặng nề cho Quân đội Iraq và đất nước Iraq thông qua 2 chiến dịch then chốt ở trên không và trên không.
“Bão táp sa mạc”
Cuộc chiến vùng Vịnh mở màn vào mờ sáng ngày 17/1/1991, tên lửa hành trình của Mỹ từ các tàu chiến phóng vào các mục tiêu quân sự của Iraq và máy bay tàng hình ném bom điều khiển trúng vào tòa nhà Thông tin ở Thủ đô Bagdad, mở đầu cho chiến dịch “Bão táp sa mạc”.
Tiếp đó, 400 máy bay chiến đấu của Mỹ, Anh, Ả Rập Saudi và Kuwait đã đánh trúng các đầu mối thông tin, căn cứ không quân, trận địa tên lửa, các nhà máy nguyên tử và hóa học, các tòa nhà của chính phủ và các trận địa tên lửa tại khu vực phía tây Iraq.
Trong chiến dịch không tập này, Mỹ và liên quân đã sử dụng trên 20 loại máy bay của 44 đời khác nhau với tổng cộng hơn 3.800 lượt cất cánh cùng 7/14 tàu sân bay của Mỹ cũng như các loại vệ tinh và tên lửa hành trình Tomahawk. Các loại máy bay chiến đấu, ném bom, vũ khí, các phương tiện bảo đảm thông tin chỉ huy, điều khiển đều thuộc thế hệ mới nhất, có uy lực mạnh và độ chính xác cao.
Máy bay cường kích A-10 của Mỹ trong Chiến tranh vùng Vịnh.
Với thủ đoạn tổ chức “chiến tranh từ xa”, với ưu thế áp đảo về tác chiến điện tử và các loại vũ khí công nghệ cao, các nước đồng minh đứng đầu là Mỹ đã “làm mềm chiến trường”, khiến đội quân Iraq suy sụp ý chí nhanh chóng thông qua cách đánh nhanh, liên tục, kéo dài, cường độ cao.
Ngay từ đầu cuộc chiến, Mỹ và các nước đồng minh đã làm cho toàn bộ hệ thống truyền thông, thông tin, radar, các lực lượng phòng không, không quân của Iraq hầu như bị tê liệt, không có thời gian củng cố và tổ chức đánh trả. Hiệu quả của chiến dịch không quân là 10% trong toàn bộ lực lượng quân sự Iraq được triển khai trên sa mạc bị thiệt hại.
Theo thống kê, sau 38 ngày đêm không kích, Mỹ và liên quân đã phá hủy 1.685/5.500 xe tăng, 1.400/3.500 khẩu pháo, 97 máy bay chiến đấu của Iraq. Hệ thống cầu cống, đường giao thông, các cơ sở kinh tế, quốc phòng chủ yếu… bị đánh phá dữ dội. Chiến dịch này cũng ngăn chặn một cách có hiệu quả việc tiếp tế của Iraq cho những đơn vị đồn trú chiến đấu phía trước và khiến 450.000 người không thể tập trung phát huy sức mạnh.
Phòng không – Không quân bị áp chế, xe tăng Iraq chịu thảm cảnh trước các vũ khí chống tăng đường không của Mỹ.
Điểm nổi bật nhất trong chiến dịch này là Mỹ và các nước đồng minh đã áp đảo Iraq bằng tác chiến điện tử (TCĐT). Trước khi oanh kích, Mỹ đã dùng tổ hợp các phương tiện nhiễu vô tuyến điện, các mục tiêu giả (tên lửa giả mục tiêu, dây kim loại…), tên lửa tự dẫn chống radar, thiết bị phát hiện và điều khiển phương tiện TCĐT, ngoài ra còn sử dụng máy bay trinh sát và máy bay chiến đấu vào TCĐT.
Chính tác dụng của tác chiến điện tử đã làm tê liệt hệ thống truyền thông, thông tin chỉ huy, làm cho quân đội Iraq không thể chỉ huy, đánh trả các đợt oanh kích từ trên không của Mỹ và đồng minh. Mỹ đã làm mưa làm gió trên bầu trời Iraq, mặc sức đánh bom, bắn tên lửa vào các trung tâm thông tin, truyền thông cũng như các cơ sở khác nhằm chia cắt quân ở trong lãnh thổ Kuwait.
“Thanh kiếm sa mạc”
Sau khi đã “làm mềm chiến trường”, phá hủy đa số trận địa hỏa lực, bãi vật cản, công sự trận địa…, làm nản lòng binh sĩ Iraq bằng lượng bom đạn khổng lồ, đúng 1 giờ (GMT) ngày 24/2/1991, liên quân tiến hành cuộc tiến công trên bộ với mật danh “Thanh kiếm sa mạc”.
Lực lượng tham gia chiến dịch này gồm có: 16 sư đoàn, 6 lữ đoàn (Mỹ có 10 sư đoàn và 2 lữ đoàn) thuộc các đơn vị bộ binh, đổ bộ đường không, thiết giáp, lính thuỷ đánh bộ… được yểm trợ tối đa của không quân, tên lửa, pháo binh và hải quân.
Video đang HOT
Mở đầu, Mỹ và liên quân sử dụng 2 lữ đoàn đổ bộ nghi binh lên bờ biển Đông Kuwait; lực lượng chủ yếu (10 sư đoàn) vượt biên giới Ả Rập Saudi, hình thành nhiều mũi đột phá chiến tuyến phía Tây Nam rồi thọc sâu đánh vào lực lượng tinh nhuệ nhất của Iraq (7 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 Vệ binh Cộng hoà) ở Tây Nam Basra, đồng thời sử dụng 300 máy bay trực thăng đổ bộ một lữ đoàn vào sâu Iraq hơn 80km. Tiếp đó các hướng, các mũi nhanh chóng phát triển, tiến vào thủ đô Kuwait, thọc sâu tới thung lũng sông Tigre và Euphrate. Sau 4 ngày tiến công, chiếm toàn bộ Kuwait và đột nhập sâu vào Nam Iraq gần 400km.
Trên đường rút chạy, các đoàn xe Quân đội Iraq liên tục bị không kích tạo nên những “xa lộ chết”.
Điều đáng chú ý, trong chiến dịch này Mỹ và đồng minh đã lừa được Iraq. Quân đội Iraq tin chắc khi Mỹ và đồng minh tấn công trên bộ, sẽ đột phá vào từ hướng Đông của Kuwait nên đã dàn quân bảo vệ bờ biển này. Thế nhưng, Mỹ và đồng minh chỉ sử dụng hai lữ đoàn để nghi binh ở đây đã khiến Iraq bị bất ngờ. Lực lượng chủ yếu gồm 10 sư đoàn đã vượt biên giới Ả Rập Saudi, chia thành nhiều hướng mũi thọc sâu, chia cắt, tiêu diệt quân Iraq. Cùng thời điểm trên, đồng minh lại cho trực thăng đổ bộ quân, chia cắt đường tiếp viện từ Iraq sang và đường rút từ Kuwait về.
Kết quả, Mỹ và đồng minh đã loại khỏi chiến đấu 29 sư đoàn quân Iraq (có 5 sư đoàn thiết giáp), bắt hơn 50.000 tù binh. Phía liên quân có hơn 4.000 chết và bị thương (riêng Mỹ có hơn 600).
Thắng lợi chớp nhoáng, dễ dàng của Mỹ và liên quân trong chiến dịch “Thanh kiếm Sa mạc” là nhờ có ưu thế áp đảo về vũ khí, trang bị kỹ thuật, tận dụng được yếu tố bất ngờ, giải quyết thành công một số vấn đề về cơ động, hiệp đồng, phương pháp tác chiến…
Quân đội Iraq đốt giếng dầu trước khi rút lui khỏi Kuwait.
Còn đối với quân đội Iraq, trước chiến tranh vùng Vịnh cũng được coi là lực lượng mạnh với hệ thống phòng thủ khá kiên cố. Nhưng sau 38 ngày đêm bị oanh kích, các công trình phòng thủ như bãi mìn, hầm ngầm, vật cản… bị phá hủy nghiêm trọng. Người và vũ khí bị tiêu hao nhiều, hệ thống thông tin chỉ huy bị tê liệt, sức chiến đấu sa sút, tinh thần hoang mang. Vì vậy, quân đội Iraq không thể chống chọi trước sức tấn công ào ạt của lực lượng liên quân; rồi bị bao vây, chia cắt và cuối cùng là bị tiêu diệt, bị bắt, bị tan rã từng mảng lớn nhanh chóng.
Ngày 26/2, quân đội Iraq bắt đầu rút khỏi Kuwait, đốt cháy các giếng dầu. Một đoàn quân Iraq dài dằng dặc rút lui dọc theo đường cao tốc Iraq-Kuwait, nhưng bị liên quân tấn công liên tục khiến nhiều phương tiện bị hủy hoại và nhiều binh sĩ thiệt mạng tới mức nó được gọi là “xa lộ chết”.
Điểm nổi bật là trong chiến dịch này, tỷ lệ thương vong của liên quân rất thấp. Lý do là vì quân đội Iraq không thể tìm ra một biện pháp phản công thích hợp đối với những ống nhòm hồng ngoại và loại đạn năng lượng động lực từ các xe tăng M1 Abrams của Mỹ và liên quân. Phương tiện này cho phép tiêu diệt hiệu quả các xe tăng Iraq từ khoảng cách xa gấp ba lần xe tăng Iraq. Với các loại khí tài hồng ngoại, Mỹ và liên quân đã biến chiến trường thành trong suốt, không còn khái niệm đêm, ngày. Từ đây, khả năng đánh đêm của Mỹ và đồng minh được khẳng định, hiệu quả hơn cả ban ngày.
Đến ngày 28/2, chiến tranh Vùng Vịnh chấm dứt sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố tạm ngừng các cuộc tấn công (5 giờ – GMT) và Kuwait được giải phóng. Chiến tranh Vùng Vịnh kết thúc sau 38 ngày đêm chiến đấu trên không và 4 ngày chiến đấu trên bộ. Thắng lợi hoàn toàn thuộc về Mỹ và liên quân.
Đại Dương
Theo_Kiến Thức
Vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh vùng Vịnh (3)
Theo thống kê, trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các nước đồng minh bắn hơn 10.000 đạn pháo, rocket các loại vào mục tiêu Quân đội Iraq.
Theo thống kê, trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các nước đồng minh bắn hơn 10.000 đạn pháo, rocket các loại vào mục tiêu Quân đội Iraq.
Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các nước đồng minh đã bắn hơn 10.000 quả đạn pháo, rocket đánh phá các công trình quân sự, dân sự, dọn đường cho bộ binh và thủy quân lục chiến tiếp cận, đột phá các mục tiêu trong nội địa, nơi quân Vệ binh Cộng hòa của Iraq chiếm giữ.
Ngoài các loại pháo hiện đại, tầm bắn xa, uy lực lớn, tốc độ bắn nhanh, khả năng công phá mạnh thì Mỹ còn sử dụng cả các loại pháo sản xuất từ những năm 1920 được hiện đại hóa một số tính năng hoặc lắp thêm hệ thống kính ngắm quan học và quan học điện tử.
Với sự trợ giúp đắc lực của các thiết bị trinh sát điện tử, thiết bị ngắm bắn quang học điện tử và việc chỉ thị mục tiêu bằng các phương tiện quân sự hiện đại, lực lượng pháo binh của Mỹ và các nước đồng minh tham chiến tại vùng Vịnh đã phối hợp chặt chẽ với không quân và hải quân, phát huy thế mạnh. Buộc quân đội Iraq phải cố thủ, trú ẩn trong công sự, trận địa, tạo cơ hội thuận lợi cho các lực lượng khác làm nhiệm vụ "giải quyết chiến trường".
Kỳ 3: "Vua chiến trường" Mỹ trong chiến tranh vùng Vịnh
Dưới đây là một số loại pháo được sử dụng trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991:
Vua chiến trường M107
Pháo tự hành 175mm M107 do hãng PCF Defenece Industry của Mỹ sản xuất và được đưa vào trang bị cho lục quân từ những năm 1965. Loại pháo này đã xuất khẩu sang CHLB Đức, Hy Lạp, Iran, Israel, Italia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh.
Loại đại bác tự hành M107 từng được viện trợ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa và được mệnh danh là "vua chiến trường".
Pháo tự hành 175mm M107 dài 11,256m, rộng 3,149m, cao 3,679m. Pháo trang bị nòng cỡ 175mm, sơ tốc đạn 914m/s, tầm bắn đạt tới 32,7km. Pháo thiết kế máy nâng, nạp đạn bằng thiết bị thuỷ lực và có trọng lượng chiến đấu tới 28.100kg.
Pháo sử dụng động cơ diesel công suất 405 mã lực có thể tháo rời. Pháo di chuyển trên đường đạt vận tốc độ tối đa là 56km/h; dự trữ nhiên liệu 1.137 lít; dự trữ hành trình 725km. Pháo cần một xe vận tải M548 đi kèm để phục vụ.
Loại pháo này có thể bắn được các loại đạn: M1-509m/s với tầm bắn 15.000m; M2-720m/s với tầm bắn 21.100m; M3-912m/s với tầm bắn 32.700m. Trong chiến tranh vùng Vịnh, loại pháo này phát huy tốt tác dụng trong chi viện hỏa lực cho bộ binh.
Pháo lựu tự hành 203mm M110
Pháo lựu tự hành 203mm M110 do hãng Pacific sản xuất và đưa vào trang bị cho Lục quân Mỹ từ năm 1977, được xuất khẩu sang nhiều nước, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan.
Xe tự hành sử dụng động cơ diesel, công suất 405CV. Xe dài 7,467m, rộng 3,194m, cao 2,93m, kíp xe gồm 5 người. Pháo có thể di chuyển trên đường với tốc độ tối đa từ 56 đến 54,7km/h, dự trữ hành trình 523-725km.
Trong chiến tranh vùng Vịnh, M110 được lục quân quân đội Mỹ sử dụng là chủ yếu.
Pháo 203mm bắn được nhiều loại đạn và có tầm bắn đạt 16.000m, nhịp bắn 1 phát/phút. Ngoài loại cơ bản còn có các loại M110, M110A2.
Pháo phản lực phóng loạt
Pháo phản lực phóng loạt M270 227mm do Công ty LTV (Mỹ) sản xuất để trang bị cho lực lượng lục quân và thủy quân lục chiến Mỹ. Tháng 4/1982, loại pháo này chính thức được đưa vào trang bị và xuất khẩu tới nhiều quốc gia.
Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Quân đội Mỹ đã sử dụng rất hiệu quả loại pháo này để tiêu diệt các mục tiêu của Iraq, tạo điều kiện cho xe tăng - thiết giáp và bộ binh đột phá làm chủ chiến trường.
Dàn rốc - két phóng loạt nhiều nòng 227mm có nhịp bắn nhịp bắn 12 phát/phút
Pháo có cấu tạo gồm 12 ống phóng, đường kính ống khoảng 227mm. Chiều dài toàn bộ 6,972m, rộng toàn bộ 2,972m, cao toàn bộ 2,617m. Trọng lượng chiến đấu 25.191kg, trọng lượng rỗng 20.189kg, dự trữ hành trình 483km, tầm hoạt động xa 483km, tầm bắn của đạn rocket 30km, dự trữ nhiên liệu 617 lít.
Trong chiến tranh vùng Vịnh, loại pháo này đã được Lục quân Mỹ sử dụng khá hiệu quả để chế áp Lục quân Iraq trong thời gian ngắn.
Pháo lựu tự hành 155mm M109
Pháo lựu tự hành 155mm M109 do hãng Cadillac motor Car Division (Mỹ) sản xuất, đưa vào trang bi cho Lục quân Mỹ từ năm 1982, được xuất khẩu sang Anh, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác.
Tại Chiến vùng Vịnh, loại pháo này được trang bị cho Lục quân Mỹ, Anh, Ai Cập và nó được coi là hệ thống hỏa lực pháo binh linh hoạt nhất của liên quân.
Pháo có chiều dài toàn bộ là 6,19m, rộng toàn bộ là 3,15m, cao toàn bộ là 2,8m. Trọng lượng chiến đấu của pháo là 24.948kg, trọng lượng rỗng 21.110kg, tốc độ tối đa trên đường 56,3km/h, dự trữ nhiên liệu 511 lít, dự trữ hành trình 349km.
Trên xe bố trí pháo lựu 155mm, cỡ số đạn 150 viên (28 viên kèm theo pháo), 1 súng phòng không 12,7mm.
Pháo lựu tự hành M109 được dùng làm vũ khí chi viện hỏa lực trực tiếp cho Lục quân Mỹ. Pháo có nhịp bắn cực đại 3 phát/phút, nhịp bắn duy trì một phát/phút. Pháo có thể bắn được nhiều loại đạn, kể cả đạn tăng tầm bằng rocket và đạn thông minh điều khiển bằng laser Corperhead.
Pháo lựu M114A1
Pháp lựu M114 155mm do hãng Rock Island Arsenal sản xuất từ trong cuộc chiến tranh Thế giới thứ 2. Tổng cộng có khoảng 10.300 khẩu pháo được trang bị cho quân Mỹ và các lực lượng đồng minh.
Loại pháo này còn bắn được các loai đạn: Hóa học, hạt nhân, chiếu sáng và đạn khói...
Pháo lựu M114A1 dài 7,315m, rộng 2,438m, cao 1,803m, kíp pháo thủ 11 người. Pháo được trang bị nòng cỡ 155mm đạt tầm bắn 14.600m, tốc độ bắn 2 phát/phút.
Đáng lưu ý, loại pháo từng được viện trợ cho VNCH trong Chiến tranh Việt Nam, sau 1975 được QĐND Việt Nam thu giữ lại và tiếp tục sử dụng trong nhiều năm sau đó.
Đại Dương
Theo_Kiến Thức
Mỹ "lạc hậu hóa" tác chiến điện tử siêu tàu sân bay Vì quá tốn kém, và quá hiện đại, hệ thống radar trên tàu sân bay lớp Ford mới sẽ phải thay đổi cho tiết kiệm hơn Trong một nỗ lực nhằm giảm chi phí và tăng sự tương đồng giữa các nền tảng thiết bị quân sự, hải quân Mỹ đang có kế hoạch đặt một hệ thống radar mới lên tàu sân...