Hai cấp tòa đau đầu phân xử vụ kiện đàn dê “vô kỷ luật”
Nhân dân một số tỉnh miền núi thường có tập tục chăn nuôi dê theo hình thức thả rông. Ban ngày, đàn dê được lùa lên núi tự kiếm thức ăn, đêm dê tự về chuồng.
Đàn dê hai chủ tranh chấp. (Hình minh họa)
Chuồng ở đây có thể được dựng tạm hoặc dùng ngay hang đá tự nhiên. Để đàn dê tự tìm được đúng chuồng, người nuôi ban đầu phải rất mất công dùng thủ thuật xát muối vào miệng dê, hoặc pha muối vào nước để cho dê uống vào giờ nhất định khi về chuồng, từ đó hình thành thói quen đến giờ sẽ tự về chuồng để được ăn muối. Thế nhưng có những lúc dê “quên” đường về, nổi hứng sang “định cư” một chuồng khác, phát sinh tranh cãi kịch liệt giữa những ông chủ. Vụ án tranh chấp đàn dê xảy ra tại huyện Hà Giang, tỉnh Cao Bằng là một ví dụ như vậy. Phải trải qua hai cấp đau đầu xét xử, tòa mới phân định được sự việc.
Một đàn dê, hai người cùng kêu bị mất
Ông Nông Công Sự (48 tuổi, ngụ bản Nà Giảo, xã Phù Ngọc, huyện Hà Quảng, Cao Bằng), là nguyên đơn trong vụ án. Ông cho biết bắt đầu nuôi dê từ năm 2001. Địa điểm nuôi đàn dê của ông là tại hang Ngườm Poóng Lũng Mu, phương thức nuôi thả rông, cho dê tự tìm ăn cỏ, vài ngày ông chủ mới mang nước và muối lên một lần cho dê ăn, uống. Đàn dê “tự trông nhau”, ngủ tại hang đá. Cuối tháng 12/2006, tổng cộng đàn dê của ông đã có 10 con lớn nhỏ.
Ngày 6/1/2007, ông Sự mang nước lên cho dê như thường lệ, tới hang đã không thấy đàn dê đâu. Mất cả cơ nghiệp, ông huy động cả nhà lùng sục tìm kiếm khắp ngang cùng ngõ hẻm, rừng sâu núi thẳm mà vẫn mất hút.
Mười ngày sau đó, vợ con ông khi đang lang thang khắp nơi ngó nghiêng, bất ngờ phát hiện thấy đàn dê ở khu vực Lũng Lầu cách đó vài km. Đàn dê đã bị cắt chuông đeo, chỉ còn chín con, mất con đực to nhất trong đàn. Mừng mừng tủi tủi, mọi người định lùa dê về thì bị ông Trương Văn Tiến (41 tuổi, ngụ thôn Luống Nọi cùng xã) ngăn lại. Ông Tiến nhất quyết cho rằng đó là đàn dê của mình, cấm ai được “nhận vơ”.
Ông Tiến khẳng định đàn dê này là của mình, đã từng bị mất trong hai lần lẻ tẻ trước đó, do đàn dê “vô kỷ luật” đi kiếm ăn xa. Ông Tiến cho hay trước đó ông hai lần mất 5 con dê, bao gồm 3 con dê cái đốm trắng, 2 con dê cái màu vàng nâu. Trong số này, con dê cái lớn nhất và con dê cái lớn thứ hai là những con dê ông mua về, còn lại đều là những con dê thế hệ F2. Lý giải việc mất 5 con, nay đàn dê có đến 9 con, và hai đàn dê bị mất tại hai thời điểm khác nhau, lại tìm về cùng một lúc, ông Tiến tỉnh bơ: “ Chúng sinh sôi nảy nở, dê mẹ đẻ dê con, rồi tình cờ cùng một lúc tìm về“.
Theo ông Tiến, ngày 12/1/2007, chị gái ông đi lấy củi về, thấy đàn dê quanh quẩn ở gần chuồng ngày trước em trai nuôi dê, nên về báo lại. Khi ông Tiến đến xem thì thấy cả đàn đã vào nằm nghỉ trong chuồng, “châu về hợp phố”.
Video đang HOT
Cũng theo ông Tiến, năm 2006, khi đàn dê 5 con của ông bị mất, cả nhà ông cũng từng long sòng sọc đi tìm. Vợ ông Tiến khi đó đã đến tìm dê tại chuồng của nhà ông Sự ở đằng sau nhà, lúc đó không thấy những con dê của mình bị mất.
Bị đơn “phá rối” “phiên xử” theo tập quán
Hai bên tranh cãi nhau không dứt. Ông Sự quyết định làm đơn đưa vụ việc nhờ cơ quan chức năng phân xử.
Trước khi vụ việc đưa lên tòa án, UBND xã Phù Ngọc đã áp dụng tập quán để phân xử. Theo đó, cả nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất, hôm sau đó sẽ đưa đàn dê lên thả trên đèo, dê về chuồng nhà nào thì thuộc quyền sở hữu của nhà ấy. Đây được đánh giá là cách phân xử rất hay, đúng với đặc điểm sinh học của loài dê nói riêng, các gia súc được chăn thả rông nói chung. Dân làng cho rằng dê là loài vật rất khôn ngoan, rất mến người chăm sóc chúng, có khả năng nhớ được nơi ở của mình, thậm chí nhớ được cả… tên của nó khi ông chủ đặt cho. Dê cũng có tính tập đoàn, mỗi con trong đàn đều có vị trí xã hội nhất định, trong đàn thường có con đầu đàn dẫn đầu cả đàn di chuyển.
Tuy nhiên, đúng hẹn có mặt tại đỉnh đèo, bị đơn bất ngờ đổi quan niệm, không nhất trí thả dê. Bị đơn giải thích rằng ông không thả dê theo thỏa thuận một ngày trước đó tại UBND xã vì “ tôi có nghe được thông tin cho rằng nhà ông Sự đã phân công người phục sẵn trong núi, “dắt mũi” đoàn dê về, như thế thì mất công cho tôi“. Tuy nhiên đây cũng là chuyện “nghe phong thanh”, chứ bị đơn không có chứng cứ gì đưa ra.
Hòa giải bất thành tại chính quyền xã, vụ việc được chuyển lên tòa án. Đàn dê tranh chấp được giao cho anh Đoàn Văn Khu (31 tuổi, ngụ thôn Luống Nọi) là người thứ 3 chăn nuôi.
Tại phiên tòa sơ thẩm được mở ít ngày sau đó, đàn dê tranh chấp bị “hao hụt” đi 1/3. Người được giao chăm sóc cho biết, 3 con dê nhỏ bị bệnh nấm nên đã chết, tuy nhiên lại có một con dê mẹ đẻ thêm dê con, tổng cộng đàn còn 7 con. Hai bên nguyên đơn và bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu xác nhận quyền sở hữu đàn dê này. Ngoài ra, nguyên đơn còn thêm ý kiến yêu cầu bị đơn bồi thường 3 con dê nhỏ bị chết do bệnh nấm. “ Nếu bị đơn không tranh giành dê, thì nhà tôi chăm sóc đã tốt hơn, chúng sẽ không chết bệnh“, nguyên đơn trình bày.
Không nhớ được đặc điểm đàn dê thì không thể là ông chủ
Trong các biên bản được lập trước đó, một lần nữa nhắc lại tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn đã miêu tả đúng đặc điểm màu lông, số lượng dê cái, dê đực, dê nhỏ, dê lớn đỏ ở sừng, một số con đeo chuông.
Xem xét lời khai của bị đơn, thấy người này không miêu tả được chính xác màu sắc và các đặc điểm khác của đàn dê, bị đơn chỉ áng chừng số dê bị mất tại hai thời điểm khác nhau, lại tình cờ gặp lại nhau nhập đàn, rồi quay về chuồng cũ cùng một lúc. Từ những căn cứ lập lập trên, tòa sơ thẩm tuyên đàn dê là của nguyên đơn Sự.
Phiên sơ thẩm, còn bất ngờ “lòi” ra một vấn đề khác. Người được Công an xã Phù Ngọc tạm giao chăn dắt dê kể từ ngày 16/1/2007 cho đến khi cơ quan thẩm quyền giải quyết xong vụ việc, nay bất ngờ có yêu cầu. Anh cho rằng khi được giao trông nom đàn dê, chưa ai có thỏa thuận với anh về công chăn dắt. Quá trình chăn dắt tại chỗ, mỗi ngày phải mất một buổi để đi cắt cỏ cho dê ăn, đem nước dê uống, đã “ngốn” của anh khá nhiều thời gian công sức. Nay anh yêu cầu bên nào thua kiện trong vụ án phải trả công chăn dắt dê cho anh mỗi ngày một buổi là 15.000 đồng. Mức giá này tính theo giá ngày công trung bình tại địa phương, đến khi nào tòa án giải quyết xong vụ kiện.
Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu được quyền sở hữu bảy con dê của nguyên đơn Sự, buộc bị đơn Tiến phải giao đàn dê và bồi thường 3 con dê bị chết cho nguyên đơn với giá trị:19kg x 14.000 đ = 266.000 đồng. Chấp nhận một phần yêu cầu đòi tiền công chăn dắt cho anh Khu là 255 buổi x 8.000 đ = 1.800.000 đồng.
Ông Tiến làm đơn đưa vụ án lên cấp phúc thẩm. Ít ngày sau, phiên phúc thẩm được mở, nhận định phiên sơ thẩm đã xử đúng luật, bị đơn không đưa ra được chứng nào mới, nên tuyên y án. Bản án có hiệu lực thi hành.
Theo xahoi
Hi hữu: Cả huyện rầm rĩ vì vụ kiện mất... heo nái
Con heo nái động dục sổng chuồng đã dẫn đến một vụ kiện "có một không hai" xảy ra tại huyện Lắk (Lắk Đắk) kéo dài suốt một năm qua nhưng đến nay vẫn chưa có hồi kết.
Bà Đỗ Thị Gái (49 tuổi) cho biết, bà là một giáo viên tiểu học ở thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk (Đắk Lắk). Do đồng lương giáo viên cấp một ít ỏi không thể đủ chi phí trang trải cho gia đình cùng 3 người con đang theo học ở xa nên sau mỗi buổi lên lớp dạy học, về nhà bà Gái lại đẩy mạnh tăng gia sản xuất mới kiếm đủ tiền cho 3 con đi học.
Bà Gái cho biết sẽ kiện đòi con heo nái đến cùng
Vào đầu năm 2012, bà đã mua một con heo nái của gia đình anh Lê Thái Trãi (41 tuổi), trú tại tổ dân phố Đoàn Kết, thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk. Do khi mua về thì con heo này đã có mang nên chỉ 2 tháng sau heo nái đã sinh được 12 con béo tròn. Nuôi thêm vài tháng, bà Gái xuất chuồng lứa heo đầu tiên được 10 triệu đồng. Bà Gái hồ hởi chăm sóc con heo nái này càng tận tình hơn, ngoài việc cho ăn những loại cám ngon, bà còn mua thêm cả cá về để cho heo ăn lấy sức mà sinh sản.
Chiều tối ngày 5/5/2012, bà Gái mừng rơn vì phát hiện con heo nái có dấu hiệu động dục. Không giấu được niềm vui cho riêng mình, bà liền gọi điện cho 3 đứa con đang theo học ở xa thông báo về sự kiện đặc biệt này. Do trời đã nhá nhem tối, không thể đi gọi người đến phối giống cho heo được nên bà Gái vào nhà nổi lửa nấu cơm ăn rồi đi ngủ.
Sáng hôm sau, bà Gái dậy từ rất sớm đi gọi người đưa heo đực đến phối giống cho heo nhà mình thì nhìn vào chuồng không thấy con nái đâu cả. Nghĩ rằng con heo sổng chuồng đang quanh quẩn đâu đây nhưng tìm mãi cũng không thấy. Suốt những ngày sau đó con heo vẫn bặt vô âm tín. Mất con heo nái vốn đang là chỗ dựa vững chắc về kinh kế của gia đình, bà Gái xót xa đến mất ăn, mất ngủ suốt cả tuần sau đó
Thế nhưng, vài tuần sau khi con heo sổng chuồng đi đâu mất, trong một lần qua nhà bà Nguyễn Thị Thọ (50 tuổi), cách nhà mình chỉ vài trăm mét, bà Gái bất ngờ phát hiện con heo nái của gia đình mình đang nằm trong chuồng heo nhà bà Thọ. Không giấu được niềm vui, bà Gái liền chạy đến gần vỗ vào người con heo, trong lòng thầm nghĩ "vậy là sau nhiều ngày bỏ chủ cuối cùng rồi mày cũng lại trở về với tao".
Giữa gia đình bà Thọ và gia đình bà Gái lâu nay vốn có mối quan hệ láng giếng rất tốt nên khi phát hiện con heo nhà mình bà Gái nghĩ việc đưa con heo này về là chuyện dễ như chở bàn tay, không có gì khó khăn. Thậm chí, trong giây lát bà Gái còn thoáng nghĩ cũng may mà lọt vào chuồng heo nhà bà Thọ chứ vào nhà người khác xấu tính chắc giờ đi tìm cái xương con heo của gia đình mình cũng không còn.
Bà Thọ khẳng định con heo nái đang tranh chấp là của mình
Thế nhưng, bà Gái đã nhầm. Khi mới ngỏ lời xin bà Thọ đưa con heo về nhà mình đồng thời thanh toán chi phí chăn nuôi suốt mấy tuần qua cho bà Thọ thì bà Thọ liền sừng sộ, mắng xối xả như tát nước vào mặt bà Gái. Bà Thọ cho rằng bà Gái "chỉ được cái nhận vơ". Bởi theo bà Thọ, đây là con heo của gia đình bà đổi được từ người em ruột là ông Nguyễn Văn Báu (ngụ tại xã Tría, huyện Lắk) bằng hai con heo khác.
Bên nào cũng đều khẳng định đây là con heo nái của gia đình mình và đưa ra nhiều người làm chứng. Hàng xóm bị một phen inh ỏi bởi sự to tiếng của hai bên gia đình. Cãi nhau chán chê, người nào cũng khàn cả cổ họng, cuối cùng họ đành mời chính quyền địa phương đến giải quyết.
Nhận được lời mời, chính quyền địa phương cũng sốt sắng vào cuộc, lập biên bản hiện trường, yêu cầu cấm xê dịch con heo nái ra khỏi chuồng nhà bà Thọ, đồng thời tiến hành lấy lời khai các bên và nhân chứng để làm căn cứ giải quyết vụ việc.
Vụ tranh chấp con heo nái đối với chình quyền tưởng dễ giải quyết nhưng hóa ra vô cùng phức tạp. Bên nào cũng khăng khăng quả quyết đó là heo nái của gia đình mình và đưa ra nhiều nhân chứng sống. Cuối cùng, vì vụ tranh chấp "quá rối" chính quyền địa phương đành phải "chào thua" nên hướng dẫn các bên làm đơn ra tòa để được giải quyết tranh chấp theo pháp luật.
Hòa giải tại địa phương bất thành, bà Đỗ Thị Gái làm đơn khởi kiện bà Nguyễn Thị Thọ, quyết đòi lại bằng được con heo mà bà quả quyết cho rằng đây chính là con heo nái của mình bị sổng chuồng trong thời kỳ động dục.
Theo vietbao
"Cuộc chiến" con rể kiện mẹ vợ đầy cam go Người con rể lạnh lùng giành lấy phần thắng về mình trong vụ kiện, bất chấp cuộc đời bất hạnh và những giọt nước mắt đau xót của người mẹ vợ... Con rể kiện mẹ vợ Phiên tòa phúc thẩm nghị án thời gian dài để làm rõ một số tình tiết. Người con rể tức tối quay lưng rời phòng xử án....