Hà Nội: 12 ngày đêm dưới mưa bom Kỳ 1
Với mục đích ép Hà Nội chấp nhận ký Hiệp định Paris theo các điều kiện của Mỹ, cách đây đúng 40 năm, vào đêm 18/12/1972, tổng thống Nixon ra lệnh mở màn chiến dịch Linebacker II với thời hạn ba ngày, nhằm vào các mục tiêu quanh Hà Nội và Hải Phòng. Nhưng trên thực tế chiến dịch kéo dài đến 12 ngày đêm.
Kỳ 1 : “Cuộc đón tiếp lịch sự” bắt đầu!
Đây gần như là một cuộc biểu dương lực lượng vũ khí hiện đại nhất, được mang ra đối phó với một nước VN còn chưa phát triển. Vì vậy mà Nixon ung dung đi nghỉ Giáng sinh và chờ tin chiến thắng. Nhưng họ chẳng bao giờ hiểu được Hà Nội đã chuẩn bị cho những ngày khốc liệt nhất của chiến tranh như thế nào.
Bà Trần Thị Mai, 83 tuổi, ở phố Khâm Thiên, Hà Nội vẫn không thể quên những ngày tháng 12/1972. Ảnh nhỏ: một góc phố Khâm Thiên sau trận bom B-52 của Mỹ – Ảnh: Nguyễn Khánh – Chu Chí thành
Năm 1972, chàng phi công Nguyễn Đức Soát – người sau này là anh hùng lực lượng vũ trang tư lệnh Quân chủng phòng không – không quân, mới 26 tuổi. 26 tuổi nhưng anh đã kịp bắn rơi sáu máy bay Mỹ.
Trong đó có năm chiếc chỉ trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10/1972, và là đại đội trưởng đại đội chiến đấu chủ lực của đoàn không quân Yên Thế, một đơn vị mà chỉ nhắc đến tên, những người bay, đã sống dậy cả một niềm tự hào của bầu trời.
Người Mỹ đã sử dụng pháo đài bay khổng lồ B-52 để trút mưa bom xuống Hà Nội – Ảnh: USAF
Nguyễn Đức Soát ghi nhật ký từ năm 1964, và cuốn nhật ký thời chiến của ông dừng lại đúng ngày cuối cùng của năm 1972. Hầu như không ngày nào ông quên ghi nhật ký. Cuốn nhật ký được nhét gọn trong túi áo bay, theo ông khắp các sân bay dã chiến miền Bắc: Đa Phúc, Kép, Gia Lâm, Thọ Xuân, Vinh, Hòa Lạc…
Nhật ký một phi công
“Đêm 18-12-1972
Hồi kẻng báo động sơ tán đầu tiên lúc 7 giờ đã làm hơi men cuối cùng của buổi liên hoan với C9 trong mình bị bay ra hết.
Có cảm giác đêm nay sẽ ác liệt. Ban chiều trong hội nghị các đại đội trưởng và chính trị viên toàn trung đoàn, đồng chí phó chính ủy đã thông báo về cuộc đàm phán ở Paris bị bế tắc. Bọn Mỹ không chịu ký kết, vẫn âm mưu đình chiến trên thế mạnh.
Thế nào chúng cũng “gây sức ép tối đa” với ta. Con chủ bài cuối cùng của bọn Mỹ là B-52 đã liều lĩnh bay ra ném bom Hà Nội. Bây giờ đã hơn 12h đêm mà cả hầm mình không đứa nào ngủ được. Từng vầng lửa bừng lên ở phía Hà Nội. Sau khoảng nửa phút là từng tràng bom nổ rung chuyển cả hầm. Tiếng bom B-52 nghe rền rền như nghe từng hồi trống để sát tai mà gõ.
Đợt đầu tiên, bọn Mỹ dùng A6, A7, F.111 đánh hết các sân bay của mình. Yên Bái, Hòa Lạc, Kép, Gia Lâm, Vĩnh Phú, Miếu Môn rồi Kiến An nữa. Sân bay mình bị ba dải B-52.
Bọn bạn bay đêm ở trung đoàn 921 cất cánh. Nhiễu lần mờ hết rađa. Bọn F4 bắn tên lửa tới tấp vào chúng. Trong tiếng bom, tiếng súng loạn xạ sáng trời, ông Cung bay từ Hòa Lạc về đây hạ cánh sau khi đánh không được. Bom đầy sân mà ông hạ được. Phục nhất là thằng Tuân hạ cánh. Hệ thống đèn hiệu ở sân bay hỏng hết. Mây thấp. Dầu hết. Đang không tìm thấy sân bay thì một chiếc B-52 bị tên lửa bắn cháy lao xuống, soi sáng cả một khoảng lớn.
Thế là nó lao xuống hạ. Chạm đất, máy bay bị rơi vào mấy hố bom, cứ nhảy lên, nhảy xuống. Cuối cùng máy bay lật ngửa, lăn kềnh trên cỏ. Nó đu chân đạp vỡ nắp buồng lái chui ra.
Chỉ riêng hành động ấy cũng đáng được tặng thưởng huân chương rồi. Ban nãy lúc 9h, chúng mình đùa nó như thế!
Video đang HOT
Đêm nay, bao nhiêu đồng bào mình bị hi sinh vì bom đạn giặc Mỹ. Nằm đây mà lòng nôn nao, bứt rứt…”.
Tướng Soát nhỏ nhẹ nói: “Tôi vẫn giữ cuốn nhật ký thời chiến của mình. Không có gì đặc biệt đâu, chỉ là những ghi chép hằng ngày của một phi công trẻ. Trong 12 ngày đêm đối mặt với B-52, tôi chỉ có một ngày không ghi chép: đêm Noel, Mỹ không đánh Hà Nội, và chúng tôi chuyển quân”.
Máy bay B-52 bị bắn cháy trên bầu trời Hà Nội – Ảnh: Nguyễn Xuân Ất
Hà Nội không bất ngờ
… Từ năm 1962, khi quyết định thành lập lực lượng phòng không và bổ nhiệm tướng Phùng Thế Tài làm tư lệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với vị tư lệnh mới: “Các chú giờ chỉ có pháo cao xạ, chưa làm gì được B-52 đâu. Ngay từ bây giờ các chú phải tìm hiểu, nắm vững, tìm cách đánh B-52 vì sớm hay muộn, Mỹ cũng sẽ đưa nó vào chiến trường VN”. Lời tiên tri báo trước 10 năm và bộ đội VN có 10 năm để chuẩn bị chiến đấu trên bầu trời Hà Nội.
… Tháng 8/1965, Mỹ bắt đầu đưa máy bay vào yểm trợ các cuộc hành quân của quân đội Mỹ và Sài Gòn trên chiến trường miền Nam. Cũng năm 1965, VN có trung đoàn tên lửa SAM2 đầu tiên.
Năm 1966, Mỹ đưa B-52 ném bom rải thảm khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình. Ngay năm đó, Quân chủng phòng không – không quân đã đưa nhiều đơn vị: tham mưu, rađa, tên lửa, không quân vào chiến trường Vĩnh Linh – Quảng Bình tìm cách phát hiện và đánh B-52.
Trong năm 1972, Bộ Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam đã chỉ thị cho sư đoàn phòng không 361 lần lượt đưa 1-2 trung đoàn tên lửa vào đường Trường Sơn để tiếp cận, nghiên cứu mức độ gây nhiễu điện tử của B-52. Các đơn vị tên lửa sau khi vào Trường Sơn và Bắc Quảng Trị đã tổng hợp các ghi nhận về chiến thuật chống B-52 của tên lửa phòng không SAM-2.
Các ghi nhận này đã được đúc kết thành cuốn “cẩm nang bìa đỏ” rất nổi tiếng sau này của Quân chủng phòng không – không quân. Vào tháng 10 năm 1972, cuốn cẩm nang này được phát cho tất cả các tiểu đoàn tên lửa để nghiên cứu luyện tập phương án đánh B-52.
Hà Nội không bất ngờ và không hề run sợ.
“Cuộc đón tiếp lịch sự của Mỹ”
Ông Lưu Văn Lợi, thư ký của cố vấn Lê Đức Thọ, kể lại: “Kissingger rời Paris ngày 13/12/1972 thì ngày 14 phái đoàn ông Lê Đức Thọ cũng rời Paris. Trên đường từ Paris về Hà Nội, chúng tôi còn phải qua Matxcơva (ngày 15) và Bắc Kinh (ngày 17) để tiếp dầu.
Bay ngang bầu trời Bắc Kinh, chúng tôi nhận được thông tin: “Có hoạt động của B-52 ở Utapao – Thái Lan và Guam – ngoài khơi Thái Bình Dương”. Máy bay xuống sân bay Gia Lâm khoảng hơn 6g chiều. Ông Lê Đức Thọ yêu cầu chúng tôi đừng về thăm nhà vội, mà cắm trại tại số 6 Nguyễn Cảnh Chân (nhà riêng ông Thọ, lúc này con cháu cũng đi sơ tán hết, chỉ còn bà ở nhà đợi ông về).
Khoảng hơn 1 giờ sau thì B-52 đánh. Trời đất sáng rực vì tên lửa và cao xạ bắn lên, đất rung ầm ầm, mảnh đạn rơi vào sân nhà, vào vườn rào rào. Chúng tôi không xuống hầm dù mỗi người đều có hầm cá nhân ở trong vườn. Hết đợt bom lại lên”.
Ông Lưu Văn Lợi nhớ lại: khi quay lại bàn đàm phán ở Paris, ông Lê Đức Thọ đã rất nhẹ nhàng và mỉa mai khi nói chuyện với Kissinger và giới ngoại giao ở Paris: “Mỹ đã đón tiếp khi tôi trở về Hà Nội “hết sức lịch sự”…
“Cuộc đón tiếp lịch sự” đó bắt đầu vào lúc 16h30 ngày 18/12/1972, khi Bộ Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam thông báo: máy bay B-52 đang trên đường bay từ đảo Guam đến Việt Nam.
17h toàn Quân chủng phòng không – không quân đã hoàn thành công tác chuẩn bị chiến đấu.
18h30 trạm rađa 12 trung đoàn 290 ở Quảng Bình và trạm rađa 16 trung đoàn 291 ở Nghệ An phát hiện có nhiều máy bay ném bom B-52. Tiếp đó, trạm rađa 45 trung đoàn 291 ở Nghệ An khẳng định: “B-52 đang bay tới hướng Hà Nội”.
19h15, lệnh báo động Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh trên miền Bắc.
Trận “Điện Biên Phủ trên không” bắt đầu.
Theo 24h
Lời tự thú của các phi công Mỹ
Họ bảo chúng tôi là ném bom mục tiêu quân sự. Đánh liền bốn lần vào một bệnh viện lớn, với hàng chục tấn bom thì không thể gọi là nhầm lẫn được, một thiếu tá người Mỹ viết.
"Chúng tôi thiết tha mong rằng những người lãnh đạo của nước Mỹ chấm dứt ngay những cuộc ném bom này. Họ cần làm mọi việc để cuộc chiến tranh chấm dứt ngay, để chúng tôi sớm được trở về với gia đình", thiếu tá không quân Carl H. Jeffcoat gửi lời cầu xin từ Hỏa Lò (Hà Nội)
"Bám đuôi nhau mà về"?
Đại úy hoa tiêu B52 Robert G. Certain khai rành rọt sau khi bị bắt sống: "Chúng tôi xuất phát từ đảo Guam. Khi chúng tôi đang giải trí ở câu lạc bộ sỹ quan, một số đã chuẩn bị đi ngủ thì lệnh trên gọi đi ngay. Lệnh cấp tốc. Hoạt động nhiều tốp. Cùng một lúc.
Chưa bao giờ huy động lớn đến thế. Ai cũng bất ngờ. Bất ngờ hơn nữa là nghe phổ biến nhiệm vụ: đánh vào vùng Hà Nội. Chúng tôi lo ngại nhìn nhau. Có đứa bảo: Thế là hết Noel.
Mấy viên đại tá cơ quan tham mưu bảo chúng tôi: "Không có gì phải lo cả. Đi ném bom đêm. Bay cao. Cứ bám đuổi nhau cho chặt. Chiếc nọ thẳng hàng chiếc kia. Rồi bám đuôi nhau trở về. Sẽ trở về đủ. Không có gì đáng lo cả!".
Robert còn được các chỉ huy đảm bảo "đi đánh đêm, MIG và trận địa tên lửa không nhìn thấy được", rồi thay vì được ngủ một giấc tại Guam, là đi thẳng vào "Hilton" Hỏa Lò ngủ dài ngày lẫn đêm.
Còn trung tá lái chính B52 Henry Ian thì không thể quên những ngày trước khi vào Hỏa Lò "nghỉ ngơi": "Mọi người lên xe Jeep đi tới một dãy nhà một tầng màu xám. Ở đó người ta họp phổ biến nhiệm vụ cho các phi công trước khi đi ném bom. Không khí lặng lẽ và chìm đắm. Những ai chưa đến lượt đi thì nằm tại buồng riêng thở dài, nghĩ đến gia đình. Những người sắp lên máy bay thì lặng lẽ nhìn nhau, không nói chuyện nhiều như trước.
Ảnh tư liệu của Mỹ
Trong cuộc họp, người ta còn nói tới cả những hoạt động đi cứu của phi vụ hôm trước, nhưng không nói rõ thiệt hại ra sao. Việc giấu diếm úp mở này càng làm khủng hoảng thêm về tâm lý đối với những người sắp ra đi như tôi lúc bấy giờ. Tất cả là màu xám. Một phòng họp màu xám dưới một bầu trời màu xám.
... Hôm ấy là ngày 22/12, máy bay tôi đi đầu tốp thứ 3 trong số 4 tốp của hướng chúng tôi, xuất phát từ Utapao (Thái Lan) lúc 1h30' sáng. Máy bay của tôi chở bom 700 và 500 cân Anh. Lúc bấy giờ chúng tôi đang ở độ cao 10km, tốc độ khoảng 900km/h.
Khoảng 4 phút trước khi tới mục tiêu (Hà Nội) thì chúng tôi được báo động có hiện tượng nghi ngờ là máy bay MIG đang săn đuổi. Ngoài ra, với mắt thường, chúng tôi có thể thấy nhiều tên lửa SAM bay vút lên phía chúng tôi.
Máy bay của tôi bị liên tiếp 2 tên lửa SAM. Sau khi bị hỏng vì quả SAM thứ nhất, chúng tôi không liên lạc gì được với nhau. Tôi đang cố gắng giữ cho máy bay thăng bằng thì bị tiếp quả SAM thứ 2, máy bay bị hỏng nặng. Cửa kính chắn gió ở buồng lái vỡ tung, hệ thống điện trong máy bay hoàn toàn mất hiệu lực, 2 động cơ máy bay bị cháy, cánh trái cháy, điện đài liên lạc để cứu cũng không liên lạc được.
Tôi là phi công lái chính, và là người chỉ huy phi hành đoàn. Tôi rất muốn liên lạc với mọi người trong nhóm, nhưng cả người lái phụ tôi cũng chẳng biết số phận anh ta ra sao. Ghế dù bật tôi ra khỏi máy bay, chiếc máy bay khổng lồ 8 động cơ mà tôi lái đang cháy sáng rực như một quả cầu lửa lớn. Xung quanh tôi tên lửa, đạn pháo nổ, réo vun vút. Thật là kinh khủng. Khi dù sắp hạ tôi xuống đất thì đã có rất nhiều người chờ sẵn để bắt tôi".
Trong một kíp bay khác, trung úy, hoa tiêu William Thomas Mayall thì than phiền với những người bắt mình: "Theo quy định của giáo trình dạy người lái B52, nếu gặp bất trắc phải xử lý nhảy dù thì người lái chính phải ra lệnh cho toàn kíp. Sau đó thứ tự nhảy dù quy định như sau:
Thứ nhất, người giữ súng được nhảy đầu tiên. Thứ 2 và thứ 3 là hai hoa tiêu, vì không cần đến họ nữa. Thứ 4 là sỹ quan điện tử. Thứ 5 là phụ lái và cuối cùng là lái chính, vì 2 người này phải giữ cho máy bay thăng bằng, phải cầm lái đến giây cuối cùng, đảm bảo an toàn cho kíp bay lần lượt nhảy dù hết. Tài liệu nhắc rõ là người lái chính phải nhảy dù cuối cùng, khi trong máy bay không còn ai.
Thế nhưng trong máy bay của tôi, hai thằng lái lại nhảy trước tiên. Chúng nó cầm lái, chúng nó nhận ra nguy hiểm đầu tiên. Và chẳng ra lệnh gì cả. Tự chúng nó, hấp! Thoát thân! Mặc chúng tôi. Cũng may, tuy bịt kín tai bằng máy nghe, nhưng tôi thấy máy bay rung mạnh, ngước nhìn lên thì chẳng thấy thằng nào còn ngồi ở ghế cả.
Tôi liền vội bấm nút nhảy dù. Tôi ngồi tầng dưới, hệ thống nhảy dù của tôi không phải bật lên mà là tụt xuống dưới. Từ bụng máy bay bật thẳng xuống, rơi tõm theo hướng thẳng đứng, khá mạnh. Chậm một tý nữa, máy bay lật ngửa bụng là tôi chết cháy".
Bị bắt mới biết còn sống
Còn trung úy bắn súng máy B52 Robert M. Hudson (trên máy bay Ebony 02) thì thở phào thuật lại tại Hỏa Lò: "Sân bay bao trùm một không khí nặng nề. Phải nói là buồn, rất buồn. Những ngày Noel xấu nhất. Tôi không thấy một ai chạm cốc với bạn bè. Chúc nhau "một Noel vui vẻ" chỉ là những câu chúc gượng gạo và mỉa mai. Tôi cảm thấy có một không khí chán nản, thậm chí bực bội đối với lệnh đi ném bom. Chưa bao giờ, vâng, chưa bao giờ sân bay B52 lại có cái không khí khổ sở đến thế!
Bọn hạ sỹ quan B52 chúng tôi có một mối thắc mắc cố hữu: Sao không cho tên kỹ sư nào đặt ra cái khẩu súng máy này trên máy bay B52 đi một chuyến cho nó biết?
Không có việc gì làm. Không phải lo nghĩ gì về đường bay, tốc độ, độ cao, máy điện tử... như năm thằng kia. Tôi chỉ có mỗi một việc là ngồi yên để mà sợ. Nhiệm vụ của tôi là sợ, nhiệm vụ tiếp theo cũng là sợ, nhiệm vụ cuối cùng cũng vẫn là sợ.
Tôi lại ngồi ở cuối máy bay. Họ dành cho tôi chỗ rất rộng, nơi tên lửa đuổi theo nổ thì chết trước ai hết! Vâng, vào đây tôi mới yên trí là tôi còn sống. Chứ cứ đi mãi, cứ ngồi ở đuôi B52 mãi, thì khó tránh khỏi cái chết, không còn đường về với gia đình...".
Việc B52 bị bắn rơi ngày càng nhiều và nhân viên phi hành bắt sống liên tục đã gieo sự sợ hãi lên cả chỉ huy của chính họ. David L. Drummond, đại úy phụ trách lái B52 khai: "Suốt 4 hôm (từ 18-21/12), không khí sân bay rất căng thẳng. Câu lạc bộ vắng hẳn. Ít chuyện trò, chẳng ai nói đùa, khôi hài như trước.
Các cuộc thông báo (briefing) càng căng thẳng hơn. Đại tá David (Chỉ huy Biên đội 307-NV) đứng dậy hỏi chúng tôi: "Các anh xem có cách nào tránh khỏi máy bay bị trúng đạn và khỏi rơi không?". Chúng tôi ai cũng biết con số 11 máy bay B52 đã bị rơi theo Đài phát thanh Hoa Kỳ. Có lẽ con số ấy còn thấp. Không một ai trả lời câu hỏi của David. Nhiều người quay lại bọn E.W.O (sỹ quan điện tử), bọn này cũng im lặng. Đến ngày 25 thì không khí còn căng thẳng hơn nữa".
Trong khi đó, tại Hà Nội, William W. Conlee (trung tá điều khiển máy điện tử B52) thừa nhận: "Chúng tôi được đến tận nơi xem một dãy phố dài, một bệnh viện lớn. Chúng tôi rất ngạc nhiên và rất hổ thẹn. Chúng tôi bị cấp trên lừa. Vâng. Đúng là sự lừa dối. Họ bảo là mục tiêu quân sự, nhưng thật ra là vùng đông dân. Bom ném theo bản đồ được đánh dấu kỹ, không thể lầm lẫn!".
Sự ám ảnh của Conlee trong những ngày bị bắt tại Hà Nội rất khó có thể phai nhòa: "Tôi cứ nhớ mãi quanh cảnh những hố bom giữa Hà Nội. Cái bảng lớn đề những dòng chữ màu đỏ và đen: Đời đời ghi xương khắc cốt tội ác của giặc Mỹ (Conlee không nhớ nguyên văn - NV) cứ ám ảnh tôi. Tôi biết rằng người Việt Nam lúc bắt tôi dù có đánh và xé xác tôi ra, chúng tôi cũng phải chịu.
Thế nhưng các ông không đối xử như thế. Vào đến đây, mọi suy nghĩ của chúng tôi bị đảo lộn. Đảo ngược hẳn. Cứ muốn giữ những hiểu biết và quan niệm cũ, nhưng thực tế lại khác. Đất nước chúng tôi trải qua một thời kỳ xấu, rất xấu".
Còn Louis H. Bernasconi (trung tá hoa tiêu B.52) đã hình dung ra sự thật của lệnh ném bom hủy diệt Hà Nội từ tổng thống Mỹ: "Ở trường huấn luyện đội ngũ người lái chiến đấu của Bộ Chỉ huy không quân chiến lược tại căn cứ tại Califonia, người ta dạy chúng tôi rằng B52 là để ném bom những mục tiêu cực lớn, những khu liên hợp quân sự rộng hàng chục dặm vuông. Mục tiêu loại này ở Việt Nam không hề có. Tôi hiểu rằng dùng B52 ném bom những vùng đông dân chính là để sát thương thật nhiều nhằm mục đích gây sức ép".
Carl H. Jeffcoat (thiếu tá phi công B52) thì khẳng định sau khi được đưa tới chứng kiến sức tàn phá của bom Mỹ tại bệnh viện Bạch Mai: "Thế là rõ. Chúng tôi bị lừa. Chỉ có thể là như thế. Họ bảo chúng tôi là ném bom mục tiêu quân sự. Đánh liền bốn lần vào một bệnh viện lớn, với hàng chục tấn bom thì không thể gọi là nhầm lẫn được.
Tôi thất vọng. Tôi buồn. Vì lòng tin của tôi vào Tổng thống của chúng tôi sụp đổ. Bây giờ thì những điều các ông nói đều đúng. Cuộc chiến tranh này rất xấu.
Tôi xin nói thật, nếu biết rằng bom rơi xuống những vùng đông dân ở như thế, thì tôi, và nhiều người chúng tôi sẽ không đi!".
Trong khi đó, tại Washington, các nghị sỹ đảng Dân chủ ra tối hậu thư: "Không có yêu cầu dân tộc nào hơn yêu cầu chấm dứt ngay lập tức sự dính líu của chúng ta (Mỹ) trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam".
Ngày 30/12/1972, Nixon rốt cuộc đã phải xuống thang, tuyên bố chấm dứt ném bom hoàn toàn miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, có hiệu lực từ 7h ngày 28/1/1973. Kisingger đã phải thừa nhận với các đại biểu Việt Nam tại Paris rằng: "Các ngài không những anh hùng lại thông minh".
12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" đã là đòn giáng mạnh vào "Tư tưởng sùng bái công nghệ và máy móc, coi học thuyết ném bom chiến lược như một giải pháp cho mọi cuộc xung đột và bom là thứ thuốc bách bệnh của Mỹ" (E.Tinpho, "Không quân Mỹ làm được gì ở Việt Nam?").
Theo Dantri
Giữ yên bầu trời Tổ quốc Cuối năm 1972, sau khi hiệp định Paris bế tắc, Mỹ quyết định mở Chiến dịch Linebacker II, đánh phá miền Bắc Việt Nam. Trong chiến dịch này Mỹ đã sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B-52 làm nòng cốt ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên tục...