Hạ lãi suất, nửa mừng nửa lo…
Với việc NHNN lần thứ 7 yêu cầu hạ lãi suất chính sách kể từ năm ngoái, doanh nghiệp chưa kịp mừng thì đã lo “liệu lãi suất vay có hạ như mong muốn?” còn quốc tế phần nào quan ngại, nguy cơ lạm phát có trở lại?
Quên bẵng luật Dân sự về lãi suất cho vay
Theo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), kể từ hôm nay, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9%/năm xuống còn 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng từ 10%/năm xuống 9%/năm.
Trần lãi suất tiền kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng giảm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm.
Trao đổi với Dân trí sáng nay, chuyên gia kinh tế – tài chính Bùi Kiến Thành cho rằng, những bất cập khi hạ lãi suất huy động nhưng lãi suất cho vay vẫn không giảm đó là do NHNN không quy định về trần lãi suất cho vay mà để cho bên đi vay và cho vay thỏa thuận.
Mặt khác, quan trọng hơn là “NHNN cũng như các ngân hàng thương mại đã quên bẵng mất quy định tại Khoản 1 và 2, Điều 476 về lãi suất: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
Vì vậy, kể cả khi giảm lãi suất chính sách, song không có gì để chắc chắn rằng các ngân hàng sẽ cho vay ở một mức thấp hơn so với trước.
“Điều luật này đã được Quốc hội đưa ra thảo luận nhiều lần, song vẫn chưa đi đến một quyết định hủy bỏ. Khi chưa hủy bỏ thì luật vẫn còn hiệu lực, nếu không tuân thủ nghĩa là phạm pháp” – ông nói.
“Ở Việt Nam, quản lý nhà nước là rất quan trọng, không thể nói phó mặc cho thị trường và sự đồng thuận của các bên một cách nửa vời như vậy”.
Video đang HOT
Theo ông, trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, Nhà nước cần lắng nghe hơn nữa nguyện vọng của doanh nghiệp, để xem doanh nghiệp muốn gì. Doanh nghiệp cần một bằng lãi suất hợp lý hơn, để sống sót cũng như để có sức cạnh tranh với bên ngoài.
“Nguyên lý cơ bản đó là doanh nghiệp có sống được thì Nhà nước mới thu được thuế, doanh nghiệp sống mới tạo ra GDP. Doanh nghiệp lỗ triền miên thì lấy ai đóng tiền mà phát triển!” – chuyên gia Bùi Kiến Thành nhắc lại.
Đánh giá của quốc tế
Ngay sau khi NHNN tuyên bố việc điều chỉnh giảm một loạt lãi suất chính sách vào ngày hôm qua, hàng loạt tờ báo uy tín của quốc tế lập tức đã thông tin cũng như bình luận về sự kiện này.
Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng ANZ cho rằng, động thái này không nằm ngoài dự đoán khi Việt Nam đã rơi vào giảm phát trong tháng 3, dự báo lạm phát trung bình cả năm đã được tổ chức này hạ xuống 6-8% từ mức dự báo trước đó là 8-10%.
Theo ANZ, nền kinh tế của Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi các phản hồi tiêu cực về tăng trưởng trong nước chậm, thiếu nguồn cung cho vay bởi tỷ lệ nợ xấu cao trong hệ thống ngân hàng, nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp và hộ gia đình yếu. Việc cắt giảm lãi suất phần nhiều hướng đến giải quyết nhu cầu tín dụng yếu này.
“Chúng tôi dự đoán, đây sẽ là lần cắt giảm cuối cùng trong năm, nhưng cũng không loại trừ khả năng sẽ có lần cắt giảm nữa nếu dữ liệu kinh tế xấu hơn” – ANZ dự đoán.
Tốc độ tăng GDP Việt Nam trong năm 2012 đã xuống thấp nhất 13 năm (ảnh: Bloomberg).
Còn trên tờ tài chính Anh Financial Times (FT), các tác giả cho rằng, đây là quyết định gần như không tránh khỏi.
FT dẫn tuyên bố của NHNN, cho rằng động thái này thể hiện mối quan ngại của cơ quan điều hành đối với việc khôi phục lại nền kinh tế. “Hoạt động sản xuất – kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, do sức mua của thị trường vẫn ở mức thấp, khả năng hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp còn hạn chế”.
Lãi suất cho vay cao là một trong những nguyên nhân khiến khoảng 100.000 doanh nghiệp Việt nam đã phải tạm dừng hoạt động hoặc phá sản trong 2 năm 2011-2012, bằng phân nửa tổng số doanh nghiệp phải đóng cửa trong suốt 2 thập kỷ qua.
Thế nhưng, FT đưa ra lưu ý rằng, không có gì đảm bảo trên thực tế các doanh nghiệp sẽ có thể vay được vốn với mức lãi suất thấp như chính sách mà nhà nước mong muốn.
Trả lời phỏng vấn FT, Giám đốc một doanh nghiệp đồ nội thất ở Bình Dương giãi bày, “Năm ngoái tôi đã nộp hồ sơ vay vốn tới 4 ngân hàng song tất cả đều bị từ chối. Mỗi lần nghe tin tức báo đài về việc giảm lãi suất, tôi đều đã thử đến ngân hàng song chưa bao giờ nhận được mức lãi suất nào như họ đưa ra. Hơn một nửa số lao động tại công ty tôi đã bị mất việc trong vòng 2 năm qua. Liệu lần này tôi có thể hy vọng nhiều hơn?”
Theo ghi nhận của FT, lãi suất huy động đã giảm đáng kể từ 14% trong năm ngoái song ảnh hưởng tới hoạt động vay vốn của doanh nghiệp là không đáng kể. Tờ báo cũng chỉ ra một vấn đề tạo nên khoảng cách giữa chính sách và thực tế đó là do một phần khoản vay trước đây ứ đọng lại, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao – trong lúc vay ngân hàng lại là nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp. Để đưa kinh tế phục hồi, phải thúc đẩy sự luân chuyển của dòng tín dụng.
Hãng tin Bloomberg của Mỹ lại nhắc lại, trong lần cắt giảm lãi suất huy động lần thứ 6 trong năm ngoái, Ngân hàng Thế giới ( World Bank) đã cảnh báo, nếu hoạt động nới lỏng chính sách của Việt Nam diễn ra sớm thì nguy cơ lạm phát sẽ quay trở lại.
Tuy nhiên, dẫn lời ông Hoàng Thạch Lân, giám đốc môi giới công ty chứng khoán MHB, Bloomberg cho biết, việc hạ lãi suất huy động sẽ là cơ sở để ngân hàng giảm lãi suất cho vay và cho vay nhiều hơn, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Tất nhiên, điều này sẽ có thể là nguy cơ cho lạm phát, và vì vậy, cần cẩn trọng hơn.
Hãng tin Mỹ cũng dẫn lại mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho tăng trưởng tín dụng năm nay là 12% – tăng 7% so thực hiện năm 2012. Tuy nhiên, sau 2 tháng đầu năm, mức tăng trưởng lại âm 0,28% so cuối năm ngoái.
Nhìn chung, dưới quan sát của quốc tế, động thái hạ lãi suất chính sách lần này của NHNN không nằm ngoài mục tiêu nhằm kích thích tín dụng tăng trở lại, hỗ trợ doanh nghiệp cũng như tạo tiền đề phục hồi nền kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cần lưu ý hơn về yếu tố lạm phát cũng như thực tiễn vay vốn của doanh nghiệp, liệu có đạt kết quả như kỳ vọng hay không.
Hạ lãi suất không phải là cách duy nhất để hỗ trợ doanh nghiệp. Đó chỉ là biện pháp đáp ứng nhu cầu tín dụng trong bối cảnh hiện tại.
Về lâu dài, Việt Nam vẫn phải tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và giải quyết vấn đề nợ xấu. Như đánh giá của chuyên gia ANZ, mặc dù những biện pháp này sẽ mất một thời gian để mang lại lợi ích cho nền kinh tế, điều quan trọng là những cải cách này phải được tiếp tục duy trì trong những năm tới.
Theo Dantri
Những hàng hóa có tốc độ sinh lời...nhanh hơn vàng!
Với xu hướng tăng giá khá bền vững, vàng được chọn là nơi "trú ẩn an toàn" trong khủng hoảng. Nhưng sự thật, trong 2 thập kỷ qua, quặng sắt mới là hàng hóa sinh lợi nhất, gấp 3 lần vàng, tiếp đến là bạc, dầu thô, xăng, chì.
Trong khi giá vàng đang có xu hướng thoái trào thì giá sắt, dầu thô, xăng, chì lại tăng.
Giữa bối cảnh khủng hoảng kinh tế, một bộ phận người có tiền dư thừa trong xã hội thường phải lúng túng trước những sự lựa chọn về các kênh bảo toàn vốn.
Từ cổ chí kim, không chỉ là thói quen của người phương Đông mà phần lớn những người nắm giữ tài sản trên thế giới vẫn biết đến vàng như một kênh đầu tư phổ biến nhất.
Thế nhưng, có một thực tế, vàng lại không phải là hàng hóa sinh lời nhất!
5 loại hàng hóa có tốc độ sinh lời nhanh hơn vàng
Theo thống kê của Dân trí, có ít nhất 5 loại hàng hóa có tốc độ sinh lời nhanh hơn vàng trong 2 thập kỷ qua.
Dẫn đầu là quặng sắt.
Tốc độ sinh lời của quặng sắt sẽ khiến nhiều người ngỡ ngàng, bởi từ năm 1993 tới nay, giá mặt hàng này đã tăng 1.129,25% (tăng 2.358,5% theo VND, tức gần 25 lần).
Đáng chú ý là trong hơn 10 năm liên tục, đến đầu năm 2004, giá sắt liên tục duy trì mức thấp và gần như không hề có biến động. Sau đó, tăng khá mạnh đến năm 2009, bùng nổ chóng mặt đến 2011. Đây cũng là giai đoạn tăng giá mạnh nhất của sắt, biên độ tăng trong 2 năm này lên tới 213,11%.
Từ tháng 2/2011 đến cuối quý III năm 2012, giá sắt thoái trào, mất gần 47% song đang trong xu hướng phục hồi trở lại, nhanh chóng lấy lại gần hết mức đánh mất của gần 2 năm trước đó với biên độ đạt 55,46%. Nhìn chung, mặt hàng này vẫn trong đà tăng giá.
Tiếp đến là bạc - cũng trong nhóm kim loại.
Tính theo USD, mức tăng của bạc lên tới 732,29%. Cùng với sự trượt giá của tiền đồng, biên độ tăng của bạc sau 20 năm đạt 1.564,59%.
Tương tự như sắt, bạc có giá ổn định đến đầu năm 2004, tăng giá mạnh đến tháng 3/2008, mức tăng giai đoạn này là 426,89%, rất ấn tượng! Thế nhưng đó chưa phải là giai đoạn hoàng kim của bạc.
Từ đầu 2008 đến quý IV/2008, giá bạc mất 48,6% khi nước Mỹ lún sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính do vỡ bong bóng nhà đất.
Giá mặt hàng này chỉ chững lại một thời gian ngắn rồi tăng vọt ngay sau đó, một mạch thẳng đứng đến tháng 4/2011, giữa lúc khủng hoảng Mỹ lan rộng ra quy mô toàn cầu - biên độ tăng giá bạc giai đoạn này lên tới 333,73%.
Có một điều mà nhà đầu sẽ phải cân nhắc, đó là giá bạc đang nằm trong xu hướng giảm. So với mức đỉnh, giá bạc ở thời điểm tháng 2/2013 đã mất 29,2%.
Một loại hàng hóa khác, nghiễm nhiên phải trong nhóm sinh lời nhất là dầu thô - do tính hữu dụng của mặt hàng này cũng như nguồn lực có hạn của nó. Và bởi vậy, dầu thô gắn với quyền lực.
Giá dầu thô 20 năm qua tăng 490,57%, gấp gần 6 lần theo USD và tăng 1.081,13% hay gần 12 lần theo VND. Giá dầu đạt đỉnh vào tháng 7/2008 tại mức 132,55 USD/thùng, tăng 627,1% sau 15 năm. Từ tháng 7-12/2008, chỉ trong 5 tháng, giá dầu sụt giảm nghiêm trọng, mất 69%.
Tuy nhiên, từ tháng 2/2009 đến nay, giá dầu vẫn tăng đều, mức tăng đạt 159,23%.
Nếu đã ưa thích dầu thì nhà đầu tư cũng không có lý do để từ chối một mặt hàng tương tự là xăng. Biên độ tăng của giá xăng sau 20 năm khá hấp dẫn 483,75% theo giá USD (1.073,1% theo VND).
Mức đỉnh được thiết lập vào tháng 6/2008 tại mức giá 3,29 USD/thùng, tăng 532,7% so tháng 2/1993 rồi giảm sâu đến tháng 12/2008, mất 70,82% so mức đỉnh.
Thời gian giá xăng phục hồi từ 2011 đến nay, đã 3 lần suýt phá mốc kỷ lục của năm 2008: Một lần vào tháng 4/2011 (giá 3,18 USD/thùng), một lần vào tháng 4/2012, giá lúc đó là 3,21 USD/thùng và lần thứ 3 là tháng 9/2012 với mức giá bình quân 3.27 USD/thùng.
Hiện tại, giá xăng vẫn đang trong xu hướng tăng, lên 3,05 USD/thùng, tăng 11,72% so tháng 11 năm ngoái.
Mặt hàng thứ 5 có tốc độ tăng giá hơn vàng sau 2 thập kỷ, theo thống kê sơ bộ của Dân trí đến thời điểm hiện tại là Chì. Biên độ tăng của kim loại này tính ở thời điểm tháng 2/2013 so tháng 2/1993 là 470,07% (tương ứng 1.040,14% theo VND).
Thế nhưng mức giá 2,37 nghìn USD/tấn hiện nay của chì đã giảm 36,3% so thời điểm hoàng kim là tháng 10/2007. Ở thời điểm đó, giá chì đã tăng 796,4% so với tháng 2/2003.
Xu hướng hiện tại của chì là tăng giá, mức tăng so với tháng 6/2012 là 28,1%.
Đơn vị: % (Nguồn: WB, Indexmundi/Dân trí).
Vàng
Theo số liệu mà Dân trí có được thì trong vòng 20 năm qua, tính theo USD, giá vàng đã tăng gần 5 lần và mức tăng đạt gần 10 lần theo tỷ giá quy đổi ra VND ứng với từng thời điểm so sánh.
Cụ thể, nếu tại thời điểm tháng 2/1993, giá vàng bình quân đạt mức 329,31 USD/oz (tương đương với hơn 3,4 triệu đồng lúc bấy giờ) thì đến tháng 2 năm nay, giá vàng bình quân đã ở mức 1.627,57 USD/oz (tương ứng gần 33,9 triệu đồng theo tỷ giá hiện tại).
Rõ ràng, mức sinh lời này là vô cùng hấp dẫn cho những nhà đầu tư dài hạn, tuy rằng không phải thời điểm nào người ta cũng có thể hoàn toàn an tâm đứng trên khối tài sản của mình mà không phải thấy "bay hơi" đi ít nhiều.
Chẳng hạn như, trong vòng gần 4 năm liền từ 1993-1996, giá vàng khá ổn định, không tăng, không giảm đột biến, nhưng bắt đầu đến giai đoạn khủng hoảng tài chính châu Á (1996-1997), giá vàng đã lao dốc thảm hại và chạm đáy vào giữa năm 1999 trước khi "nằm sàn" lần nữa vào 2001.
Một số người nản chí và rời bỏ cuộc chơi khi bắt đầu bước sang giai đoạn từ 2002 sẽ phải ngậm ngùi nuối tiếc bởi mặt hàng này bất ngờ lên giá liên tục trong vòng 6 năm với mức tăng đạt 271,8%. Gián đoạn năm 2008-2009, giá vàng thời kỳ này có giảm 21,43% song ngay sau đó bật tăng mạnh cho đến 2011, biên độ tăng hơn 132,6% (gấp 2,33 lần).
Từ đó tới nay, giá vàng lình xình, xu hướng thoái trào lại trở lại, niềm tin trên thị trường này sụt giảm và có vẻ như những ở thời điểm kinh tế suy thoái, việc cầm giữ vàng lại trở nên bất lợi.
Như vậy, trong khi giá vàng và bạc đang thoái trào thì xu hướng giá hiện tại của sắt, dầu thô, xăng và chì vẫn đang tăng.
Những hàng hóa khác
Ngoài ra, trong 20 năm qua, nếu mạnh tay đầu tư vào những loại hàng hóa khác như ure, bột cá, len thô, cao su, đồng, thiếc và uranium, nhà đầu tư cũng sẽ không phải thất vọng.
Mức sinh lời của ure lên tới 387%, của bột cá là 343,6%, của uranium là gần 330%, của thiếc là 318%, của len thô gần 300%, cao su 256% và đồng 264,4%.
(*) Dữ liệu thông qua tổng hợp thống kê từ nhiều nguồn bao gồm World Bank; US Energy Information Administration...
Theo Dantri
WB hỗ trợ Việt Nam cải cách giáo dục Ban Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) đã phê duyệt 2 khoản tín dụng tổng trị giá 150 triệu USD để giúp Việt Nam hỗ trợ và duy trì thực hiện Chương trình cải cách giáo dục đại học và chuẩn bị sẵn sàng cho trẻ 5 tuổi tới trường. Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam, chia...