Giữ lớp trang điểm không trôi do mồ hôi
Chảy mồ hôi có tác dụng làm hạ nhiệt độ điều chỉnh thân nhiệt. Tuy nhiên chúng ta sẽ gặp khó khăn nếu mồ hôi chảy trên mặt và làm trôi lớp trang điểm.
Mặc dù không thuộc nhóm người nhiều mồ hôi, nhưng khuôn mặt bạn thường xuyên ra mồ hôi rất nhiều?
Nguyên nhân của đổ mồ hôi mặt
Trong cuộc sống thường nhật, bạn ít đổ mồ hôi hoặc không chịu vận động khi trời nóng bất thường, tuyến mồ hôi không thích ứng được nên hoạt động rất kém.
Tuyến mồ hôi rơi vào tình trạng ngủ yên, đặc biệt tuyến mồ hôi ở phần dưới cơ thể và cánh tay.
Khi tuyến mồ hôi chân tay kém hoạt động, bắt buộc tuyến bã nhờn trên mặt phải hoạt động nhiều hơn để điều chỉnh thân nhiệt.
Mồ hôi chảy nhiều đến mức làm trôi lớp trang điểm trên khuôn mặt
Mồ hôi gần giống như nước, trong khi đó, thành phần dầu trong mỹ phẩm và tuyến bã nhờn có thể bảo vệ lớp trang điểm, mồ hôi chảy xuống cũng không thể cuốn theo lớp trang điểm được. Trong trường hợp này, dùng kem nền đánh thật kỹ thì không có vấn đề gì.
Tuy nhiên, trường hợp quá nhiều mồ hôi do chứng “đổ mồ hôi nhiều”, thành phần muối xuất ra nhiều trên bề mặt da làm tăng tính hút ẩm của mồ hôi do đó lớp trang điểm cũng bị cuốn theo khi mồ hôi đổ nhiều.
Lúc đó, không còn cách nào khác là phải trang điểm lại.
Phương pháp chống đổ mồ hôi trên mặt
Trước hết, phải tăng hoạt tính của tuyến mồ hôi chân tay bằng cách vận động, các bài thể dục.
Video đang HOT
Tiếp đến, thực hiện các phương pháp như bên dưới.
Làm lạnh vùng quanh cổ
Trước khi trang điểm, làm lạnh phía sau cổ (bằng khăn lạnh hoặc các chất làm lạnh)
Làm lạnh phần sau cổ có thể hạ nhiệt độ cơ thể, từ đó mồ hôi trên mặt cũng ít đi.
Khi trang điểm ở ngoài, hãy nhúng khăn tay vào nước vắt cho ráo rồi đắp lên phía sau cổ.
Nếu làm như thế này thường xuyên, thân nhiệt được điều chỉnh và mồ hôi ít chảy trên mặt hơn so với những lúc bình thường.
Thức ăn có tác dụng giảm chứng ra mồ hôi nhiều
Nội tiết tố nữ có chứa thành phần hạn chế xuất mồ hôi, đồng thời nếu mồ hôi có xuất cũng không mang tính hút ẩm (không cuốn theo lớp trang điểm).
Do đó tích cực bổ sung những chất tăng cường nội tiết tố nữ như isoflavone có trong đậu nành.
Phương pháp phản xạ Hemihidrotic
Là phương pháp lợi dụng cơ chế tiết mồ hôi: nếu ta hạn chế mồ hôi ở một số chỗ của cơ thể, thì các bộ phận khác sẽ xuất mồ hôi nhiều hơn mức bình thường.
Khi mặc Yukata, mồ hôi phần trên không đổ nhiều, lý do là vì phần ngực bị áp lực nên mồ hôi ở các bộ phận còn lại chảy nhiều.
Mặc Yukata phần chỗ ngực buộc nhiều dây nên phần này bị áp lực lớn, mồ hôi không xuất ra.
Khi phần nửa trên cơ thể ít ra mồ hôi thì lượng mồ hôi xuất ra ở mặt cũng giảm. Lượng mồ hôi phần dưới cơ thể tăng hơn so với mức bình thường.
Đương nhiên, phương pháp này chỉ có tác dụng giảm lượng mồ hôi ở chỗ này, còn những bộ phận còn lại sẽ tăng lên nên không giải quyết vấn đề hiệu quả.
Chỉ nên ứng dụng phương pháp này trong trường hợp gấp rút, muốn giảm lượng mồ hôi chảy trên mặt. Mùa hè nóng nực nên dễ chảy mồ hôi, và chúng ta ai cũng không muốn mồ hôi cuốn trôi lớp trang điểm.
Nếu là mồ hôi không mang tính hút ẩm thì không thành vấn đề, vì vậy hãy tìm hiểu thử mồ hôi của mình đổ theo cơ chế nào để có biện pháp đối ứng phù hợp!
Theo VNE
Khi nào cho trẻ dùng thuốc hạ sốt?
Vào mùa hè với những đợt nắng nóng nhiệt độ tăng cao, xen kẽ với những đợt mưa, lũ lụt... nên nhiều bệnh, tật do vi khuẩn, virut, nấm... bùng phát. Và, sốt là một trong những biểu hiện đầu tiên của nhiều bệnh...
Cơ chế gây sốt
Sốt có thể do nhiều yếu tố gây ra gồm vi khuẩn và độc tố vi khuẩn, virút, nấm, xoắn khuẩn, các phản ứng miễn dịch, các hormon điển hình là progesterol, các thuốc và các polynucleotid tổng hợp. Các chất này gọi chung là chất sinh nhiệt ngoại sinh.
Chất sinh nhiệt ngoại sinh gây sốt thông qua một chất trung gian gọi là chất sinh nhiệt nội sinh, đó là interleukin 1 (IL-1). Chất này được bạch cầu đơn nhân và đại thực bào bài tiết khi có tác động của các chất sinh nhiệt ngoại sinh. IL-1 được máu đưa tới trung khu điều hoà thân nhiệt ở vùng dưới đồi thị rồi gắn vào các neuron cảm nhận nhiệt ở vùng trước thị giác của đồi thị và "đặt lại chuẩn" của trung tâm điều hoà thân nhiệt lên mức cao hơn. Khi đó làm cho thân nhiệt bình thường trở nên thấp hơn "mức chuẩn" mới, làm người ta có cảm giác ớn lạnh, sởn gai ốc, run và co mạch ngoại vi làm da và niêm mạc tái. Đây là triệu chứng khởi đầu của cơn sốt và là cơ chế làm tăng thân nhiệt.
Khi thân nhiệt đạt tới "mức chuẩn" mới thì quá trinh sinh nhiệt và thải nhiệt cân bằng và sốt duy trì thân nhiệt ở mức cao. Khi nguyên nhân sốt được loại bỏ thì mức "nhiệt chuẩn" trở lại bình thường làm người bệnh lại cảm thấy quá nóng. Khi đó bệnh nhân vã mồ hôi, da ửng đỏ vì dãn mạch, tăng tần số thở, các phản ứng trên làm tăng thải nhiệt và sốt giảm. IL-1 còn kích thích tổng hợp prostaglandin E1 (PGE1) gây hoạt hoá quá trình sinh nhiệt và giữ nhiệt, huy động bạch cầu từ các kho dự trữ trong tuỷ xương, gây hoá ứng động với bạch cầu tới các nơi vi khuẩn xâm nhập, làm tăng giải phóng enzym và tăng hoạt tính thực bào của bạch cầu. Đây là cơ chế bảo vệ chống lại các tác nhân gây bệnh. IL-1 có trong các tế bào hình sao của não được giải phóng vào não gây hoạt hoá các neuron gây ngủ sóng chậm gây ra tình trạng ngủ gà, ngủ lâu khi sốt có tác dụng bảo vệ tế bào não.
Như vậy, sốt là một phản ứng bảo vệ của cơ thể để chống lại các tác nhân gây bệnh. Đây là phản ứng có lợi, nó chỉ trở nên có hại khi sốt cao quá mức do sốt làm gia tăng quá trình chuyển hoá và teo cơ bắp vì IL-1 huy động các acid amin từ cơ thông qua vai trò của men cyclo oxygenase. Hiện tượng này gây ra đau mỏi cơ và teo cơ bắp do sốt. Sốt làm tăng nhịp tim, tăng tiết mồ hôi gây mất muối, mất nước, nhức đầu, sợ ánh sáng, toàn thân mệt mỏi. Người cao tuổi đang mắc các bệnh tim hoặc não thì sốt là tác động xấu. Trẻ em khi sốt cao trên 40oC dễ bị co giật.
Cần hạ nhiệt khi sốt cao (nhiệt độ nách trên 390C)
Xử lý thế nào?
Từ các phân tích trên chúng ta cần có thái độ hợp lý khi xử lý sốt để phát huy được tác dụng tích cực của sốt và làm giảm những tác dụng bất lợi của sốt. Khi sốt nhẹ ( 39oC) thì cần hạ nhiệt. Có hai biện pháp hạ nhiệt đó là:
Hạ nhiệt bằng phương pháp vật lý (nên được ưu tiên sử dụng trước) gồm cởi bớt quần áo cho thoáng, chườm lạnh bằng đắp khăn thấm nước mát lên bẹn, nách, trán, hai bên thái dương, tưới nước muối đẳng trương để làm mát người.
Phương pháp dùng thuốc hạ sốt. Có 5 nhóm thuốc hạ sốt giảm đau: Nhóm dẫn xuất của acid salicilic (natri salicilat, aspirin), nhóm dẫn xuất của pyrazolon (antipyrin, pyramidon, amidopyrin), nhóm dẫn xuất của anilin (phenacetin, paracetamol), nhóm dẫn xuất của indol (indomethacin), nhóm các thuốc khác (antranilic, ketoprofen, ibuprofen...). Các thuốc trên đều có tác dụng hạ sốt, giảm đau, chống viêm, trong đó paracetamol, aspirin, amidopyrin hay được sử dụng để hạ sốt.
Khi sử dụng thuốc hạ sốt cần lưu ý vì không có tác dụng điều trị nguyên nhân mà chỉ làm giảm triệu chứng nên khi thuốc được thải trừ sốt sẽ trở lại. Các thuốc này đều ức chế tổng hợp prostaglandin nên dễ gây thiếu máu ở các cơ quan, gây giảm tạo chất nhầy bảo vệ của đường tiêu hoá dễ gây viêm và loét đường tiêu hoá, thuốc chanh chấp với vitamin K, ức chế kết dính tiểu cầu dễ gây ra chảy máu. Vì vậy, không được dùng các thuốc trên cho người có tiền sử bị viêm loét hoặc chảy máu dạ dày hành tá tràng, nên uống thuốc lúc no sau bữa ăn, không dùng trong sốt xuất huyết và các bệnh nhân có bệnh thận, bệnh gan, tăng huyết áp. Chỉ dùng liều thấp nhất có tác dụng.
Đối với aspirin còn có tác dụng ức chế bài tiết acid uric ở ống thận, vì vậy không dùng ở người bị bệnh gút. Aspirin còn gây bùng phát cơn hen hoặc làm cơn hen nặng lên nên không dùng cho người bị bệnh hen. Còn paracetamol, là thuốc có nhiều dạng dùng (viên nén, viên đạn, dạng xiro, viên sủi bọt...) với rất nhiều tên gọi. Vì vậy người dùng cần thận trọng để tránh dùng nhiều loại thuốc một lúc mà trong đó đều có chứa paracetamol, gây quá liều, hại gan. Đối với trẻ em cần chọn dạng dùng thích hợp với trẻ.
Bình thường, cơ thể người luôn được duy trì ở một khoảng nhiệt độ rất hẹp để tạo thuận lợi cho chuyển hoá tế bào và hoạt động bình thường của các cơ quan trong cơ thể. Trong ngày thân nhiệt xuống thấp nhất vào 2-4 giờ sáng (35,8oC - 36oC), rồi thân nhiệt tăng dần tới đỉnh điểm vào khoảng 6 - 10 giờ tối (37oC - 37,2oC). Nhiệt độ lấy ở hậu môn thường cao hơn lấy ở miệng 0,25oC - 0,5oC, và cao hơn ở lấy ở nách 0,5oC - 1oC.
Vì vậy, nhiệt độ lấy ở hậu môn là tốt nhất vì phản ánh sát với nhiệt độ nội tạng. Nhiệt độ lấy ở nách người bình thường sau khi nằm nghỉ 30 phút nằm trong khoảng 36oC - 36,8oC, sau đó người ta phải cộng thêm vào 0,5oC để xác định thân nhiệt. Thân nhiệt chênh lệch trong khoảng 3,5oC so với thân nhiệt bình thường (nghĩa là khoảng 33oC - 40oC) thì chưa gây nguy hiểm cho tính mạng.
Ở trẻ em khi thân nhiệt cao tới 41oC thường xảy ra co giật, và não sẽ bị tổn thương không hồi phục khi thân nhiệt lên đến 42,2oC (do làm biến chất protein, làm rối loạn chức năng các enzym). Khi thân nhiệt tụt xuống 32,8oC thì xuất hiện tình trạng hôn mê, khi thân nhiệt xuống tới 28,5oC thì xảy ra rối loạn nhịp tim (rung nhĩ chậm), nếu thân nhiệt thấp hơn nữa có thể gây rung thất và ngừng tim.
Theo vietbao
Hình ảnh chống nóng ngộ nghĩnh của động vật Động vật được đeo kính râm, ăn kem, tắm mát để hạ nhiệt trong những ngày nắng nóng. Chú chó này nằm hóng mát trong những ngày nắng nóng ở Anh. Con vẹt ở Costa Rica này chọn cách ngâm mình trong nước. Con sóc ở Wiltshire, Anh thích thú với chiếc kem mát lạnh. Con sư tử châu Phi tại vườn thú...