Giữ chân lao động nông thôn bằng nghề truyền thống
Tại Kiên Giang, các làng nghề, nghề truyền thống ở nông thôn thời gian qua đã tạo việc làm cho nhiều lao động. Vừa qua, tỉnh đã công nhận thêm một làng nghề và 8 nghề truyền thống, nhằm tiếp tục duy trì, hỗ trợ và giữ vững nghề truyền thống, góp phần nâng cao thu nhập người dân.
Hạn chế lao động đi làm xa
Thực hiện Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 về việc phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020 (gọi tắt là OCOP), tỉnh Kiên Giang đang triển khai xây dựng đề án “Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 – 2020″ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông thôn, cải thiện đời sống người dân.
Nghề nung đất ở xã Thổ Sơn đã tạo công ăn việc làm cho 50 lao động, thu nhập bình quân dao động từ 5-6 triệu đồng/người/tháng. Ảnh: T.T
Theo ngành chức năng tỉnh Kiên Giang, Chương trình OCOP nhằm phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát triển nội lực và gia tăng giá trị, là giải pháp nhiệm vụ trọng tâm trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Năm 2018, tỉnh công nhận 2 làng nghề truyền thống và 12 nghề truyền thống. Năm 2019, tỉnh tiếp tục công nhận 1 làng nghề và 8 nghề truyền thống.
Các nghề truyền thống trên đều đáp ứng đầy đủ các tiêu chí theo quy định của Nghị định số 52/2018 về phát triển ngành nghề nông thôn. Nghề xuất hiện tại địa phương trên 50 năm và đang tiếp tục phát triển; nghề tạo ra sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc; nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Theo đó, làng nghề đan ghế bằng dây nhựa vừa được công nhận năm 2019 đáp ứng đủ 3 tiêu chí: Tối thiểu 20% tổng số hộ trên địa bàn tham gia một trong các hoạt động; hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm liên tục và tính đến thời điểm được công nhận; đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường, làng nghề theo quy định hiện hành.
Ông Đỗ Minh Nhựt – Phó Giám đốc Sở NNPTNT cho rằng: Xét và công nhận nghề truyền thống và làng nghề nhằm tạo điều kiện để các cấp quan tâm, hỗ trợ duy trì, phát huy nghề không bị mai một. Nghề truyền thống tại địa phương vừa mang lại thu nhập cho lao động nông thôn, vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Đây cũng là ngành nghề giữ chân lao động nông thôn, hạn chế tình trạng lao động ồ ạt đổ về thành phố.
Tạo thu nhập ổn định
Video đang HOT
Là xã đặc biệt khó khăn, bên cạnh sản xuất nông nghiệp, người dân ở xã Thổ Sơn (huyện Hòn Đất) sinh sống chủ yếu dựa trên nghề nung đất (nồi đất). Nghề nung đất của xã ra đời vào những năm 1960. Tương truyền vị tổ nghề là người Khmer, và người làm nghề này lâu nhất hiện nay là ông Trịnh Văn Hạnh (sinh năm 1939), ngụ ấp Vạn Thanh, xã Thổ Sơn và gia đình bà Thị Cà Hạng (sinh năm 1960).
Sản phẩm của nghề nung đất chủ yếu là các dụng cụ nhà bếp dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Nguyên liệu chính của nghề nung đất là đất sét có sẵn tại địa phương. Để có một sản phẩm hoàn chỉnh, người thợ phải thực hiện khá nhiều công đoạn từ khâu chọn đất, nhào nặn, vỗ và tạo hình sản phẩm, làm bóng, tạo hoa văn cho sản phẩm.
Hiện nay, xã Thổ Sơn còn 18 hộ làm nghề, tập trung nhiều nhất tại ấp Hòn Quéo và ấp Vạn Thanh. Nghề nung đất đã tạo công ăn việc làm cho 50 lao động, thu nhập bình quân từ 5 – 6 triệu đồng/người/tháng. Sản phẩm sau khi nung xong sẽ được chuyển đi tiêu thụ ở trong tỉnh, các tỉnh khu vực ĐBSCL, Đông Nam Bộ. Ông Trần Phan – Phó Chủ tịch UBND xã Thổ Sơn cho biết: “Người dân cần được hỗ trợ thiết bị, máy móc phục vụ nghề, giảm bớt các công đoạn thủ công để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, người dân cần được hỗ trợ đầu ra, đảm bảo thu nhập và thu hút thêm nhiều lao động”.
Làm tôm khô tại TP.Hà Tiên là nghề có truyền thống hơn 50 năm và được sản xuất từ sản vật tự nhiên tại địa phương. Hiện TP.Hà Tiên có 200 hộ gia đình theo nghề làm tôm khô tập trung ở Đông Hồ, Bình San, Pháo Đài và Tô Châu. Nghề tôm khô có hơn 800 lao động tham gia sản xuất, thu nhập bình quân từ 4 – 6 triệu đồng/người/tháng. Nhờ nguyên liệu tôm khai thác tự nhiên tại vùng biển Hà Tiên và đầm Đông Hồ nên có vị ngọt, thơm riêng biệt.
Theo Danviet
Lấy dân làm gốc, Bình Dương về đích nông thôn mới
Sau 10 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), tỉnh Bình Dương đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ.
Phóng viên Báo NTNN đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Văn Bông (ảnh) - Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Bình Dương về kết quả chương trình này.
Xin ông khái quát tình hình nông thôn của tỉnh hiện nay?
- Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam với diện tích đất tự nhiên là 269.464ha. Trong đó, diện tích đất nông, lâm nghiệp là 194.799ha. Năm 2019, dân số toàn tỉnh là 2.163.643 người. Trong đó, dân số nông thôn là 472.369 người. Lao động nông nghiệp chiếm 20,77% trong cơ cấu lao động chung của tỉnh. Cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Từ năm 2010, tỉnh Bình Dương đã triển khai thực hiện thí điểm xây dựng NTM tại 3 xã, là: Bạch Đằng, Thanh An, An Sơn, tạo tiền đề trong thực hiện Chương trình NTM. Sau khi Chương trình NTM được Chính phủ ban hành, tỉnh đã ban hành chương trình, kế hoạch để triển khai đồng bộ cho tất cả các xã trên địa bàn tỉnh. Đến nay, 100% số xã đạt chuẩn NTM, 3/7 đơn vị cấp huyện, thị xã đạt chuẩn NTM.
Không nợ đọng
Cụ thể, tỉnh đã đạt những thành quả gì trong Chương trình NTM trong 10 năm qua, thưa ông?
- Hiện, về tiêu chí giao thông: 100% tuyến đường xã và đường từ trung tâm xã đến đường huyện được nhựa hóa, đảm bảo ôtô đi lại thuận tiện quanh năm; 100% tuyến đường trục ấp và đường liên ấp được được nhựa hóa, đảm bảo ôtô đi lại thuận tiện quanh năm...
Ông Phạm Văn Bông - Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Bình Dương (thứ 2 bên trái), cùng các lãnh đạo tỉnh tham quan gian trưng bày đặc sản bưởi da xanh. Ảnh: T.Đ
Về tiêu chí điện: Toàn tỉnh đã triển khai công tác xóa điện kế nông thôn đến nay không còn điện kế tổng, điện kế cụm. Nguồn cung cấp điện cho các xã chủ yếu là lưới điện quốc gia được đầu tư đảm bảo theo yêu cầu kỹ thuật. Tỷ lệ số hộ dân sử dụng điện tại khu vực nông thôn đạt 99,98%.
Về tiêu chí trường học: Tỉnh đã nâng dần chất lượng dạy và học, với tỷ lệ học sinh thi đỗ các cấp đều tăng qua các năm. Đến nay, trên địa bàn các xã có 178 trường các cấp. 100% trường học có cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đạt chuẩn quốc gia, có 117/178 trường đạt chuẩn quốc gia.
Về tiêu chí tổ chức sản xuất: UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 31quy định chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2018 - 2020. Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh đã thành lập 152 HTX, trong đó có 72 HTX nằm trên địa bàn 46 xã xây dựng NTM với 55.494 thành viên. Đến nay, tỷ lệ người có việc làm trên dân số trong độ tuổi lao động của các xã trên địa bàn tỉnh đạt trên 90%. 100% các xã đều đạt tiêu chí lao động có việc làm.
Về tiêu chí thu nhập: Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2018 đạt 58 triệu đồng, 100% số xã đạt tiêu chí về thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mới của tỉnh đến cuối năm 2018 còn 1,62%.
Riêng về tiêu chí môi trường: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 99,9%, tỷ lệ sử dụng nước sạch ở nông thôn đạt 73%. 100% cơ sở sản xuất - kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy định về bảo vệ môi trường. Công tác bảo vệ môi trường nông thôn đã có bước đột phá lớn, nhất là vấn đề xử lý rác thải khu dân cư và cảnh quan môi trường nông thôn xanh - sạch - đẹp - sáng. Hầu hết các huyện, thị đều đã triển khai thực hiện các tuyến đường hoa, tuyến đường kiểu mẫu không có rác.
Tổng vốn đầu tư cho xây dựng NTM của Bình Dương trong 10 năm qua hơn 25.722 tỷ đồng. Bình Dương có gặp phải tình trạng nợ đọng xây dựng Chương trình NTM?
- Qua 10 năm triển khai thực hiện Chương trình NTM dưới sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh tất cả các dự án xây dựng cơ bản trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đều được thẩm định nguồn. Vì vậy, 100% dự án đầu tư xây dựng cơ bản của chương trình đều được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục của Luật Đầu tư công. Tỉnh Bình Dương không có nợ đọng xây dựng cơ bản của Chương trình xây dựng NTM.
Bên cạnh những thuận lợi, tỉnh Bình Dương đã gặp những khó khăn gì trong xây dựng NTM?
- Có thể thấy, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của tỉnh đã được quan tâm đầu tư, đời sống vật chất, tinh thần ở nông thôn được cải thiện. Tuy nhiên, so với bộ tiêu chí xã NTM tỉnh Bình Dương ban hành tại Quyết định số 462 thì trên địa bàn tỉnh chỉ có 2 xã đạt trên 15 tiêu chí; 11 xã đạt từ 10 - 15 tiêu chí, 38 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí và 9 xã đạt dưới 5 tiêu chí. Nguồn kinh phí đầu tư cho NTM còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu. Nguồn vốn thực hiện Chương trình NTM không có bố trí vốn riêng, chủ yếu là vốn lồng ghép.
Việc huy động nguồn lực từ nhân dân, các doanh nghiệp và các nguồn khác chưa được cập nhật đầy đủ nên chưa thể hiện được vai trò đóng góp của các nguồn lực xã hội.
Ông Phạm Văn Bông
Lấy dân làm nòng cốt
Thưa ông, vậy đâu là bí quyết để Bình Dương vượt qua những khó khăn và đạt được những thành quả như hôm nay?
- Tại Bình Dương, Ban chỉ đạo các Chương trình NTM phân công nhiệm vụ cho các thành viên tham gia phụ trách từng tiêu chí và từng huyện, xã. Định kỳ hàng tháng, quý, 6 tháng, Ban chỉ đạo họp nghe cơ quan thường trực báo cáo tiến độ xây dựng NTM, đồng thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát về tiến độ thực hiện, chỉ đạo cụ thể từng vấn đề, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ.
Xác định xây dựng NTM theo phương châm "Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư là chính, Nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí và các chính sách hướng dẫn", nên Ban chỉ đạo các huyện, Ban quản lý các xã vận động nhân dân góp vốn xây dựng NTM trên tinh thần tự nguyện. Phương châm vận động là công khai, minh bạch, có thể đóng góp nhiều đợt tùy theo khả năng kinh tế của từng hộ gia đình, nguồn vốn vận động chính quyền địa phương không cất giữ...
UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở NNPTNT (Cơ quan thường trực chương trình) tập trung phối hợp cùng các ngành đổi mới phương pháp, đa dạng hóa các cách thức tuyên truyền để tăng cường phổ biến các cơ chế, chính sách, phổ biến các cách làm hay, mô hình hiệu quả trong xây dựng NTM, giới thiệu những nét đẹp về đời sống kinh tế, văn hóa xã hội... ở các ấp, xã đạt chuẩn NTM giúp mỗi người dân nhận thức được vai trò của mình trong xây dựng NTM, thêm yêu và tự hào về làng quê nơi mình sinh ra và lớn lên.
Thời gian tới, tỉnh Bình Dương đặt ra mục tiêu gì cho Chương trình NTM?
- Từ nay đến năm 2020, tỉnh đặt ra mục tiêu là tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông nghiệp với phát triển đô thị theo qui hoạch; xã hội nông thôn dân chủ ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2020, tỉnh có từ 12 - 15 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, kiểu mẫu; 100% huyện, thị xã đạt chuẩn NTM và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM.
Từ năm 2020-2025, sẽ xây dựng NTM trên cơ sở phát triển nông nghiệp bền vững, an toàn theo hướng quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao - công nghệ sinh học hướng tới nông nghiệp hữu cơ, chăn nuôi an toàn sinh học để phát triển bền vững. Cơ sở hạ tầng phát triển kết nối đồng bộ trong vùng Đông Nam Bộ và với các vùng đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên để khai thác bền vững các tiềm năng, lợi thế các vùng miền. Đến năm 2025, tỉnh sẽ có 50% xã đạt chuẩn NTM nâng cao.10% xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Xin cảm ơn ông!
Theo Danviet
Đà Nẵng: Ngày càng xuất hiện nhiều mô hình nông nghiệp CNC Tại Đà Nẵng, các mô hình sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ trên địa bàn, dần được thay thế bằng mô hình nông nghiệp công nghệ cao, hiện đại...qua đó, giúp người dân nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống. Sáng ngày 2/2, Ban Thường vụ Hội Nông dân Thành phố Đà Nẵng tổ chức hội nghị Tổng kết công tác Hội...