Giây phút sỹ quan Liên Xô cứu thế giới khỏi họa hạt nhân
Chiến tranh hạt nhân chưa bao giờ đến gần như vậy trong cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba, khi các tàu ngầm Liên Xô trang bị ngư lôi hạt nhân bị bao vây bởi các tàu khu trục, máy bay Mỹ.
Tàu ngầm Liên Xô lớp Foxtrot.
Theo National Interest, cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba diễn ra trong 13 ngày tháng 10.1962 là một trong những sự kiện căng thẳng nhất trong lịch sử.
Năm 1961, lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev đồng ý bí mật đặt các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tại Cuba nhằm đối phó với phương Tây. Tháng 10.1962, một máy bay trinh sát Mỹ phát hiện những tên lửa cùng nhiều cơ sở đang được xây dựng.
8 ngày sau, Tổng thống Mỹ khi đó, John F. Kennedy quyết định ra lệnh phong tỏa Cuba nhằm ngăn Liên Xô vận chuyển vũ khí đến quốc gia này,
Chiến dịch Kama
Một phần trong chiến dịch đưa vũ khí đến Cuba là việc đồn trú các tàu ngầm Liên Xô mang tên lửa đạn đạo. Ngày 1.10.1962. Liên Xô mở Chiến dịch Kama, dùng 4 tàu ngầm diesel lớp Foxtrot mở đường đến Cuba. Các tàu ngầm này mang số hiệu B-4, B-36, B-59 và B-130, thuộc Lữ đoàn tàu ngầm 69. Sỹ quan chỉ huy Liên Xô có mặt trên tàu B-4 và B-59, bao gồm Tham mưu trưởng Lữ đoàn tàu ngầm 69, Vasili Arkhipov.
4 tàu ngầm Liên Xô khởi hành mang theo 21 ngư lôi thông thường và một ngư lôi hạt nhân T-5. Ngư lôi có sức công phá tương đương quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki trong Thế Chiến 2. Theo quy định, thuyền trưởng tàu ngầm được phép khai hỏa ngư lôi hạt nhân nếu quan chức chính trị đi cùng đoàn đồng ý.
Không phải là tàu ngầm hạt nhân, các tàu ngầm lớp Foxtrot có thể hoạt động liên tục 10 ngày dưới biển trước khi phải nổi lên mặt nước. Né tránh được các máy bay săn ngầm NATO trên đường đi nhưng khi đến gần Cuba, các tàu này sẽ buộc phải nổi lên để sạc pin, cũng như giúp 78 thủy thủ mỗi tàu có thể hit thở không khí trong lành.
Liên Xô thử nghiệm kích nổ ngư lôi hạt nhân.
Video đang HOT
Điều kiện sống trong tàu ngầm lặn sâu dưới khi đó ngày càng tồi tệ theo thời gian. Hệ thống tản nhiệt trên tàu ngừng hoạt động, khiến cho nhiệt độ tăng lên từ 37-57 độ C. Nồng độ CO2 gia tăng khiến cho cả thể chất và tinh thần thủy thủ trở nên kiệt quệ. Tình trạng thiếu nước sạch lan rộng trong khi một số người bị phát ban.
Ngày 23.10, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó, McNamara cho phép các tàu Mỹ sử dụng thuốc nổ cỡ tương đương với lựu đạn để ra dấu hiệu cho các tàu ngầm đối phương nổi lên.
Hải quân Mỹ không nhận ra mối nguy hiểm của trò chơi “mèo đuổi chuột” với các tàu ngầm Liên Xô. Hai tàu B-130, B-36 quyết định nổi lên ngay trước mũi tàu chiến Mỹ. Trong khi đó, căng thẳng lên đến mức cao trào nhất vào ngày 27.10 khi hải quân Mỹ phát hiện ra tàu ngầm B-59.
Thế giới tránh khỏi thảm họa hạt nhân
Máy bay tuần tra Mỹ phát hiện B-59 và khiến tàu ngầm Liên Xô không dám nổi lên dù năng lượng đã gần cạn kiệt. Tàu khu trục USS Beale gần đó thả thuốc nổ để ra dấu hiệu cho tàu ngầm Liên Xô.
Tuy nhiên, vụ nổ gây hư hại đến hệ thống liên lạc và gây hoảng sợ đối với các thủy thủ. 10 tàu khu trục Mỹ thuộc nhóm tàu tác chiến tàu sân bay USS Randolph sau đó cũng tiếp cận khu vực.
Sỹ quan liên lạc Victor Orlov gợi nhớ lại: “Cảm giác giống như ở trong thùng kim loại và có người gõ bằng búa từ bên ngoài. Nhiệt độ trong tàu ngầm lên tới 50 độ C còn lượng oxy thì dần cạn kiệt.
“Đã nhiều ngày qua, chúng tôi không thể hít thở không khí trong lành. Nhiệt độ bên trong ngày càng tăng lên… Cảm giác rất khó có thể thở, quá nhiều khí CO2. Tôi cảm thấy chóng mặt và mọi người cũng như vậy”, thủy thủ Anatoly Andreyev mô tả tình trạng của nhóm khi đó.
Vasili Arkhipov được tôn vinh là người đã cứu thế giới tránh khỏi thảm họa hạt nhân.
Mệt mỏi và thiếu thông tin vì không thể liên lạc về Moscow, Valentin Savitsky, thuyền trưởng tàu nghĩ rằng chiến tranh hạt nhân đã nổ ra. Savitsky ra lệnh nạp ngư lôi hạt nhân và chuẩn bị ngắm bắn vào tàu sân bay Mỹ USS Randolph. Quan chức chính trị Ivan Maslennikov lên tiếng đồng ý.
Nhưng trùng hợp thay, Tham mưu trưởng Lữ đoàn tàu ngầm 69, Arkhipov lại có mặt trên tàu ngầm B-59. Theo lời thủy thủ, Arkhipov đã tranh cãi nảy lửa với thuyền trưởng tàu trước khi hai người bình tĩnh lại còn B-59 thì nổi lên mặt nước.
Ngay khi nổi lên, tàu ngầm B-59 lộ rõ trước ánh đèn từ các tàu khu trục Mỹ. Trực thăng và máy bay cất cánh từ tàu sân bay USS Randolph tiếp cận tàu ngầm Liên Xô ở tầm thấp. Tàu chiến Mỹ tiếp cận ở khoảng cách 20 mét và phát đi lời cảnh báo bằng loa phát thanh. B-59 sau khi sạc pin đã quay đầu trở về Liên Xô.
Trong số 4 tàu ngầm, chỉ có tàu B-4 không bị lực lượng Mỹ phát hiện nhưng vì nhiều lý do mà thuyền trưởng Rurik Ketov cũng ra lệnh cho tàu ngầm quay về.
Một ngày sau đó, Kennedy đạt được thỏa thuận bí mật với lãnh đạo Liên Xô. Mỹ sẽ rút tên lửa khỏi Thổ Nhĩ Kỳ và hứa không gây chiến với Cuba. Đổi lại, Liên Xô từ bỏ ý định đặt vũ khí hạt nhân tại quốc gia Nam Mỹ này.
Theo Đăng Nguyễn – NI (Dân Việt)
Chiếc tàu ngầm bị đắm tới hai lần của Liên Xô
K-429 được coi là chiếc tàu ngầm kém may mắn nhất của hải quân Liên Xô khi bị chìm đến hai lần chỉ trong vòng hơn hai năm.
Một tàu ngầm lớp Charlie của Liên Xô. Ảnh: History
Khi tàu ngầm K-429, chiếc thứ 10 thuộc lớp Charlie đề án 670, được biên chế cho hạm đội Thái Bình Dương của hải quân Liên Xô tại cảng Petropavlovsk vào tháng 9/1972, không ai nghĩ rằng nó sẽ trở thành chiếc tàu ngầm kém may mắn nhất với hai lần bị đắm, theo National Interest.
Với lượng giãn nước 4900 tấn, vận tốc 44 km/h, tàu ngầm K-429 trang bị tên lửa cận âm P-70 chứa một đầu đạn thông thường hoặc một đầu đạn hạt nhân có sức công phá 200 kiloton, tầm bắn hơn 56 km. Khả năng khai hỏa tên lửa từ dưới nước của tàu ngầm lớp Charlie luôn khiến các chiến lược gia NATO đau đầu.
Đến đầu năm 1983, tàu K-429 được đại tu tại cảng với các tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân và ngư lôi vẫn ở trên khoang, còn thủy thủ đoàn được cho nghỉ phép về thăm nhà.
Đúng lúc này, Mỹ huy động các cụm tàu sân bay chiến đấu và tàu chiến, máy bay, tàu ngầm tiến hành đợt tập trận hải quân lớn với các đối tác ở Bắc Thái Bình Dương. Căng thẳng gia tăng buộc hạm đội Thái Bình Dương Liên Xô ra lệnh đưa tàu ngầm K-429 quay trở lại trực chiến sớm hơn dự kiến, trước khi quá trình đại tu hoàn thành.
Lệnh đưa ra quá gấp khiến hạm trưởng Nikolai Suvorov không thể tập hợp được thủy thủ của tàu. Bộ chỉ huy huy động thủy thủ từ 5 tàu ngầm khác, trong đó nhiều người còn chưa quen với các hệ thống trên tàu K-429.
Họ chỉ được tập hợp đầy đủ ba giờ trước khi tàu ra khơi mà không có thời gian để kiểm tra hệ thống hay máy móc trên tàu. Chiếc tàu ngầm buộc phải khởi hành bất chấp sự phản đối của hạm trưởng Suvorov.
Hạm trưởng Suvorov không hề biết rằng hệ thống thông gió trên tàu ngầm đã để mở trong quá trình đại tu, thiết bị đo đạc trên tàu không được hiệu chỉnh chính xác, trong khi thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm về máy móc trên tàu hay phối hợp cùng nhau.
Ngày 24/6/1983, Suvorov ra lệnh cho tàu ngầm lặn thử nghiệm ở vịnh Sarannaya khi ở độ sâu 50 m, nhưng tàu nhanh chóng bị chìm do các thủy thủ không hiểu quy tắc vận hành bể dằn. Khi hệ thống báo động khẩn cấp trên tàu được kích hoạt, Suvorov ra lệnh cho nổ các bể dằn chính để tàu nổi lên, nhưng thay vì thổi khí vào bể dằn để đẩy nước ra, thủy thủ lại đưa thêm nước vào. Ngay sau đó, mọi hệ thống điện bị ngắt, phòng điểu khiển bị cô lập và nước biển tràn vào.
Công tác ứng phó sự cố trên tàu diễn ra chậm chạp do thủy thủ không có kinh nghiệm khiến 14 người thiệt mạng. Ngay sau đó, chiếc tàu ngầm chìm xuống đáy biển ở độ sâu 160 m.
Thế nhưng các thủy thủ không thả phao khẩn cấp để phát tín hiệu radio và thủy âm về đất liền để cầu cứu, vì lo sợ bị kỷ luật. Ban đầu, Suvorov hy vọng sở chỉ huy sẽ nhận ra việc tàu ngầm đang chìm dần, nhưng ông trở nên lo lắng hơn khi không nhận được tín hiệu phản hồi nào sau nhiều giờ.
Lúc này, một vài cục pin chính của tàu phát nổ, khiến nhiệt độ bên trong một số khoang tàu ngầm đã lên tới 120 độ C. Sau lời kêu gọi của các sĩ quan chỉ huy, hai thủy thủ tình nguyện thoát ra ngoài theo khoang chứa ngư lôi, bơi vào đất liền để báo cáo sự cố. Vài giờ sau, đội cứu hộ đến nơi, các thợ lặn mang theo đồ lặn vào trong tàu giúp thủy thủ thoát ra ngoài.
Ba tháng sau, Suvorov và một sĩ quan trên tàu bị bắt giữ, xét xử và kết án 10 năm tù do vi phạm các quy định của hạm đội. Có tất cả 16 thủy thủ thiệt mạng trong báo cáo về vụ tai nạn này được công khai trong thập niên 1990.
Tàu ngầm K-429 sau đó được trục vớt, sửa chữa và đưa trở lại biên chế. Tuy nhiên, tháng 9/1985, tàu lại bị chìm tại cảng làm một thủy thủ thiệt mạng. Nguyên nhân vụ chìm tàu lần hai vẫn chưa được làm rõ nhưng có vẻ khác với lần đắm trước.
Tàu K-429 sau đó tiếp tục được trục vớt nhưng không được điều ra biển nữa mà trở thành một tàu huấn luyện cho đến khi bị tháo dỡ cùng các tàu khác trong thập niên 1990.
Duy Sơn
Theo VNE
Tay súng huyền thoại đánh bại tiểu đoàn bắn tỉa Liên Xô Huyền thoại Phần Lan Simo Hayha là tay súng bắn tỉa cừ khôi nhất bởi những phẩm chất ông tích lũy và cả nỗi sợ hãi mà ông gieo rắc cho binh sĩ Liên Xô trên chiến trường. Tay súng bắn tỉa huyền thoại Simo Hayha. Trong cuốn sách mới xuất bản tháng 11 năm nay, tác giả Tapio Saarelainen đã kể lại...