Giáo viên hạng III phải chờ 9 năm để lên hạng II, sao không phải là 3-5 năm?
Giáo viên bậc trung học phổ thông hạng III phải chờ 9 năm để xét thăng hạng II là một trong những quy định bất cập về tiêu chuẩn năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Nội dung Khoản 3 Điều 4 quy định tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên trung học phổ thông hạng II còn nhiều bất cập (Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT ban hành ngày 02 tháng 02 năm 2021).
Thứ nhất , ” nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục trung học phổ thông và triển khai thực hiện có kết quả vào nhiệm vụ được giao.”
Thiết nghĩ, đây là quy định bắt buộc cho tất cả viên chức (giáo viên, nhân viên) ở trường công lập, tư thục chứ không chỉ dành cho giáo viên hạng II.
Vì sao giáo viên phổ thông hạng III phải chờ 9 năm để xét thăng hạng II? (Ảnh chỉ mang tính minh họa: Baokontum.com.vn)
Thứ hai , “có khả năng điều chỉnh kế hoạch dạy học và giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương; cập nhật, vận dụng linh hoạt và hiệu quả các phương pháp dạy học, giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới, phù hợp với điều kiện thực tế”.
Chỉ có hiệu trưởng/hiệu phó/tổ trưởng/tổ phó chuyên môn mới có trách nhiệm điều chỉnh kế hoạch dạy học và giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương.
Riêng giáo viên bộ môn thì ai cũng phải vận dụng linh hoạt và hiệu quả các phương pháp dạy học, giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới, phù hợp với điều kiện thực tế. Nếu không làm được điều này, giáo viên sẽ không hoàn thành nhiệm vụ và bị chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Luật Viên chức.
Thứ ba , “có khả năng nghiên cứu, cập nhật kịp thời yêu cầu đối mới về kiến thức chuyên môn; vận dụng sáng tạo, phù hợp các hình thức, phương pháp và lựa chọn nội dung học tập, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân”.
Đây là việc làm thường xuyên của giáo viên được thể hiện qua từng học kì, từng năm học, nên quy định nội dung này là không cần thiết.
Thứ tư , “có khả năng đánh giá hoặc hướng dẫn đồng nghiệp nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng; đánh giá sản phẩm nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh trung học phổ thông từ cấp trường trở lên”.
Hiện tại, hiệu trưởng/hiệu phó/tổ trưởng/tổ phó chuyên môn có trách nhiệm đánh giá hoặc hướng dẫn đồng nghiệp nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. Nếu giáo viên hạng II làm thêm nhiệm vụ này thì có thừa không?
Chỉ cần giáo viên có năng lực hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học thì ai cũng có thể làm nhiệm vụ đánh giá sản phẩm nghiên cứu khoa học kỹ thuật từ cấp trường trở lên, chứ không riêng gì giáo viên hạng II.
Thứ năm , “có khả năng vận dụng sáng tạo các hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh”.
Có thể khẳng định, quy định này không hợp lí vì đây là nhiệm vụ bắt buộc của giáo viên tất cả các hạng – có chăng mới ở cụm từ “phẩm chất, năng lực” mà trước đây chưa được đề cập (nhưng nội hàm vẫn vậy).
Video đang HOT
Thứ sáu , “có khả năng vận dụng có hiệu quả các biện pháp tư vấn tâm lí, hướng nghiệp và công tác xã hội trường học phù hợp với từng đối tượng học sinh trong hoạt động dạy học và giáo dục”.
Tương tự, quy định này cũng chỉ đề ra cho có, bởi giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm hiện đang làm những nhiệm vụ này qua từng ngày.
Thứ bảy , “có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện các nhiệm vụ của giáo viên trung học phổ thông hạng II và có khả năng sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số trong một số nhiệm vụ cụ thể được giao”.
Không biết khi được thăng hạng II thì giáo viên bậc trung học phổ thông sử dụng ngoại ngữ để làm những công trình khoa học, đề án hay dịch tài liệu nào?
Thứ tám , “được công nhận là chiến sĩ thi đua cơ sở hoặc giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp trường trở lên”.
Hiện tại, giáo viên dạy các môn ít tiết (không gọi là môn phụ – tác giả nhấn mạnh) như Công nghệ, Thể dục, Giáo dục quốc phòng, Thể dục… thường rất ít khi được hiệu trưởng giao kiêm nhiệm công tác chủ nhiệm. Vậy làm sao để họ có thể tham gia thi giáo viên chủ nhiệm giỏi?
Thứ chín , “viên chức dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng II (mã số V.07.05.14) phải có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng III (mã số V.07.05.15) hoặc tương đương từ đủ 09 (chín) năm trở lên (không kể thời gian tập sự), tính đến thời hạn nộp hồ sơ đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng”.
Điều băn khoăn là, căn cứ vào đâu để cho rằng, giáo viên phải có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng III (mã số V.07.05.15) hoặc tương đương từ đủ 09 (chín) năm trở lên (không kể thời gian tập sự) mới được đăng kí dự thi hoặc xét thăng hạng?
Vì sao không phải 3 năm, 5 năm… mà tăng lên 9 năm? Liệu giáo viên dạy 9 năm thì năng lực giảng dạy có hơn giáo viên 3 năm, 5 năm hay không?
Đành rằng giáo viên dạy học trên 9 năm thì có nhiều kinh nghiệm hơn so với giáo viên chỉ mới dạy vài ba năm. Thế nhưng thực tiễn dạy học cho thấy, không phải cứ giáo viên dạy học lâu năm thì chuyên môn hơn hẳn giáo viên dạy ít năm.
Tôi nhận thấy, có giáo viên vào nghề chỉ vài ba năm nhưng năng lực chuyên môn rất tốt, nhiệt huyết với nghề, chất lượng giảng dạy vượt trội, được đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh tín nhiệm – như thế họ phải được tham gia thăng lên hạng cao hơn mới phải.
Ngược lại, có giáo viên dạy hàng chục năm nhưng năng lực hạn chế, không chịu học hỏi, ngại đổi mới… thì việc thăng hạng dành cho họ cũng chẳng có ích gì.
Nhìn chung, 9 tiêu chuẩn quy định về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên bậc trung học phổ thông hạng II còn nhiều bất cập nên rất khó áp dụng vào thăng hạng chức danh nghề nghiệp.
Qua bài viết này, kính mong Bộ Giáo dục, Bộ Nội vụ rà soát lại tính khả thi của những quy định để sớm bổ sung, sửa đổi Luật Viên chức và Nghị định số 101/2017/NĐ-CP sao cho thiết thực, hợp lí với thực tiễn giảng dạy của giáo viên.
Tài liệu tham khảo:
//luatvietnam.vn/co-cau-to-chuc/thong-tu-04-2021-tieu-chuan-xep-luong-giao-vien-thpt-cong-lap-198083-d1.html?layout=amp
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả .
Cùng khối lượng công việc, giáo viên già lương cao hơn giáo viên trẻ là vô lý
Chúng ta thấy tính chất, khối lượng công việc của các giáo viên như nhau nhưng lương thì lại đang chênh lệch rất lớn- đây rõ ràng là những hạn chế cần tháo gỡ.
Ngay sau khi Bộ ban hành các Thông tư 01,02,03,04/2021/TT-BGDĐT Quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường mầm non đến trung học phổ thông công lập thì nó lập tức trở thành tâm điểm của dư luận.
Nhiều bài viết cho rằng lương giáo viên sẽ tăng mạnh sau ngày 20/3 tới đây. Nhiều thầy cô giáo chia sẻ băn khoăn về chuyện mình xuống hạng. Và, có cả những thầy cô cho rằng với cách xếp lương theo các Thông tư mới này thì giáo viên trẻ có lợi còn những thầy cô lớn tuổi sẽ thiệt thòi.
Bảng lương hiện nay đang thể hiện nhiều bất cập (Ảnh minh họa: VTV.vn)
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng việc các cơ quan chức năng đang tiến tới việc trả lương theo vị trí việc làm là điều công bằng nhất. Giáo viên trẻ hay lớn tuổi không quan trọng, quan trọng nhất là sự cống hiến và hiệu quả công việc của mỗi người thầy cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Nếu giáo viên trẻ mà họ thực sự giỏi, có tâm huyết, có trách nhiệm, là những nhân tố tích cực trong nhà trường, trong ngành giáo dục thì việc trả lương cho họ bằng, thậm chí cao hơn những thầy cô lớn tuổi cũng là một lẽ thường tình.
Hãy nhìn vào việc phân công định mức giảng dạy để thấy sự công bằng hay không công bằng
Theo Luật Giáo dục năm 2019 thì phụ cấp thâm niên nhà giáo sẽ bị cắt nhưng vì hiện nay nhà nước chưa trả lương theo vị trí việc làm nên phụ cấp này vẫn đang còn được giữ nguyên.
Việc cắt thâm niên nhà giáo là thiệt thòi chung cho tất cả đội ngũ các thầy cô giáo đang công tác trong ngành giáo dục và tất nhiên là ai cũng mong muốn được giữ lại phụ cấp này.
Song, vấn đề là sau khi Bộ ban hành các Thông tư 01,02,03,04/2021/TT-BGDĐT thì một số thầy cô cho rằng nếu trả lương theo cách tính của các Thông tư này thì giáo viên trẻ có lợi, giáo viên lớn tuổi bị thua thiệt.
Tuy nhiên, chúng tôi không cho là vậy. Để được hưởng lương hạng II thì giáo viên đó ít nhất cũng đã phải trải qua 9 năm công tác nhưng đây mới là tiêu chí về thời gian.
Những thầy cô được bổ nhiệm là giáo viên hạng II phải hội tụ rất nhiều tiêu chí khác nhau chứ đâu cứ đủ bằng cấp, chứng chỉ và năm công tác thì nghiễm nhiên trở thành giáo viên hạng II. Vì thế, giáo viên nào được bổ nghiệm hạng II cũng phải là những người tiêu biểu mới đạt được.
Xếp lương giáo viên tiểu học hạng II cũ chuyển sang hạng II mới
Còn đối với việc trả lương như mấy chục năm nay thì người đang thiệt thòi nhất lại là những thầy cô giáo trẻ, những thầy cô có thâm niên trên dưới 10 năm công tác nhưng họ nào biết kêu ai.
Vì sao chúng tôi nói giáo viên trẻ hiện nay đang thiệt thòi? Bởi vì theo quy định của ngành thì giáo viên tiểu học dạy 23 tiết, giáo viên trung học cơ sở dạy 19 tiết, giáo viên trung học phổ thông dạy 17 tiết/tuần.
Nhìn vào quy định này thì chúng ta thấy Bộ Giáo dục có phân công giáo viên lớn tuổi, trẻ tuổi không khác nhau về định mức công việc đâu, ai cũng đều đảm nhận số lượng công việc như nhau hết.
Nhiều người cho rằng những thầy cô lớn tuổi có kinh nghiệm giảng dạy- điều này hoàn toàn đúng, không có gì bàn cãi, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều những thầy cô chưa thực sự là những "cây cao bóng cả" trong đơn vị- điều này các bạn đồng nghiệp có thể nhìn thấy rõ trong đơn vị mình công tác.
Ở chiều ngược lại, những giáo viên trẻ có thể kinh nghiệm chưa bằng nhưng có lẽ chỉ cần 5 năm công tác (lương bậc 2) là họ đã đủ kinh nghiệm để làm việc, và tham gia tất cả các kỳ thi, hội thi mà ngành giáo dục tổ chức.
Đó là chưa kể nhiều thầy cô giáo trẻ hiện nay rất năng động, họ giỏi về công nghệ thông tin nên những giờ dạy của họ thường được học sinh thích thú.
Nhiều khi chúng tôi đi dự giờ những thầy cô giáo trẻ cũng học ở họ rất nhiều kinh nghiệm đứng lớp và cách tổ chức các hoạt động dạy học theo những đổi mới của ngành trong những năm gần đây.
Suy cho cùng, mục tiêu của bài học là học sinh nắm được bài, lĩnh hội được kiến thức chứ không phải là người thầy đó lớn tuổi hay ít tuổi đứng lớp.
Vậy, tại sao lâu nay lương giáo viên lại có sự chênh lệch nhau quá lớn? Trong khi phần lớn giáo viên đều là giáo viên đứng lớp không đảm nhận chức vụ?
Bởi vì giáo viên sang năm thứ 6 mới được hưởng phụ cấp thâm niên, mỗi năm được 1% phụ cấp. Nếu bình thường cứ 3 năm tăng 1 bậc lương với hệ số 0.33.
Trong khi những thầy cô lớn tuổi hưởng lương vượt khung, nhiều người hưởng phụ cấp đến trên dưới 30% nên nhiều thầy cô hiện nay có mức lương trên 12-13 triệu đồng.
Trong khi lương giáo viên bậc 1, bậc 2 chỉ được hưởng ở ở ngưỡng trên dưới 4 triệu đồng...Đây cũng là một điều bất công chứ? Bởi, công việc được giao như nhau, thậm chí một số công việc khó thì Ban giám hiệu lại thường giao cho giáo viên trẻ thực hiện.
Chính vì thế, chúng ta thấy tính chất, khối lượng công việc của các giáo viên như nhau nhưng lương thì lại đang chênh lệch rất lớn- đây rõ ràng là những hạn chế cần tháo gỡ.
Hy vọng vào việc trả lương theo vị trí việc làm
Sau khi Bộ ban hành các Thông tư 01,02,03,04/2021/TT-BGDĐT thì trên các diễn đàn của giáo viên đề cập nhiều đến chuyện xếp lương, xếp hạng. Nhưng, có lẽ các Thông tư này cũng chưa có thể giải quyết được vấn đề gì trong lúc này.
Bởi, hơn 5 năm trước, các Thông tư liên tịch số 20, 21,22,23/2015/TTLT-BGDĐT-BNV cũng được ban hành, cũng xếp hạng, xếp hệ số lương giáo viên nhưng đến bây giờ cũng có thay đổi được gì đâu.
Vì thế, các Thông tư 01,02,03,04/2021/TT-BGDĐT lần này biết đâu rồi cũng vậy...!
Bởi, ngày 09/10/2020, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất lùi thời điểm áp dụng cải cách tiền lương đến 01/7/2022 thay vì từ năm 2021 như tinh thần của Nghị quyết số 27/NQ-TW nên có lẽ giáo viên sẽ tiếp tục chờ và hy vọng.
Hy vọng tới đây giáo viên được trả lương theo vị trí việc làm, lúc ấy những thầy cô giáo dù lớn tuổi hay ít tuổi sẽ được nhận lương đúng giá trị công việc của mình đảm nhận. Những giáo viên trẻ không phải buồn, không phải chạnh lòng với những đồng lương hàng tháng của mình!
Hầu hết giáo viên đều có thể phấn đấu lên hạng II mới, đâu chỉ ban giám hiệu Tiêu chuẩn của giáo viên hạng II từ tiểu học trở lên được xếp lương có hệ số 4,0 đến 6,38 sẽ không quá khó, hầu hết giáo viên đều có thể đạt được. Sau khi chùm Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT ban hành và sắp có hiệu lực thì có rất nhiều sự quan tâm của giáo viên việc chuyển xếp...