Giang hồ sài gòn (Kỳ 11): Bữa nhậu hy hữu
Vừa nói Lâm vừa chìa tay đưa lại khẩu súng cho đối thủ, thêm: – “Chó lửa” của các anh đây. Thử sức cho vui vậy thôi, chớ tôi biết các anh nói giỡn…
Lâm chín ngón – đại ca thứ thiệt 1 thời
Tôi quen Lâm Chín ngón đã lâu, viết về nhân vật này đã khá nhiều, nhưng chưa bao giờ viết về những ngày cuối đời của Lâm, cũng như cái chết của anh ta. Nay, trước hương hồn người đã mất, xin viết lại chuyện chưa bao giờ viết này. Và để bạn đọc nắm được toàn bộ nội dung, xin lược qua lại những gì tôi biết về tay giang hồ cộm cán nổi tiếng từ thập niên 1960 này.
Tôi quen biết Lâm Chín ngón
Tôi biết Lâm Chín ngón khi ở tù tại khu C, trại 7, Côn Đảo – thường gọi Chuồng cọp. Thời gian ở tù ngoài Côn Đảo (tôi bị án tù chung thân năm 1972, ra đảo đầu năm 1973), tuy tôi là tù chính trị nhưng lại bị nhốt chung một khu với tù hình sự.
Riêng Lâm ra đảo khoảng đầu tháng 4/1975, được đưa ngay vào khu C, một mình một phòng. Thời gian này tôi mới ở bệnh xá về, thêm bị liệt chân phải đi lại khó khăn nên chỉ loáng thoáng biết có Lâm, tiếp đó là giải phóng 30/4, nên chưa thể nói quen Lâm.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiều tù thường phạm bị nhốt trong khu C lợi dụng những ngày đầu giải phóng, công tác canh gác tù nhân còn sơ hở, trốn ra khỏi trại, phá kho tang vật, lấy cắp nhiều món đồ có giá trị trong kho như đồng hồ, nữ trang, tiền mặt… và bị trừng trị hết sức nghiêm khắc. Lâm Chín ngón không nằm trong số này, nhưng do án quá nặng (hai án chung thân về tội giết Vũ Định Cường, em Sơn Đảo; và Hoàng Đầu lâu) nên không được tha về hoặc lưu lại Côn Đảo như tất cả các tù thường phạm khác, mà tiếp tục chuyển về trại giam tại đất liền, mãi đến năm 1988 mới được tha.
Tha về chưa được bảo lâu, qua số tù hình sự ở khu C trại 7 Côn Đảo trước đây, Lâm Chín ngón hỏi thăm, tìm tới tôi, kể cho tôi nghe suốt thời gian từ sau 30/4/1975 đến giờ anh ta đã sống ra sao. Nhắc lại thời gian ở chuồng cọp Côn Đảo, Lâm bùi ngùi kể số phận không may của những “dân chơi” cũ.
Nói ngay, người em kết nghĩa này chưa khi nào nói dối, qua mắt tôi, luôn trước sau như một xưng hô cung kính anh em. Ngay cả đối với bà xã tôi, Lâm cũng luôn hễ gặp là vòng tay chào hỏi, nói chuyện thường chắp hai tay, gọi chị xưng em hết sức đàng hoàng. Nghe Lâm kể quãng thời gian ngồi tù, tôi chỉ biết an ủi Lâm, khuyên anh ta từ nay nên cố sống lương thiện.
Còn có một câu chuyện bây giờ tôi mới kể khi Lâm ở trong trại đã lừa đánh cán bộ cải huấn…
Theo lời Lâm, có một cán bộ trong trại cải tạo không hiểu sao luôn tìm đủ mọi cách gây khó dễ cho Lâm khiến Lâm rắp tâm trả thù, nhưng phải đợi thời cơ.
Thời cơ đến khi một sáng sớm nọ, trước giờ vác cuốc lên đường trồng cây, cán bộ từ phía sau Lâm bước đến, mà ánh mặt trời in rõ bóng ông ta chiếu dài theo bước chân. Lâm đang vác cuốc thấy vậy liền sửa lại thế, hơi kéo cán cuốc đang vác trên vai về phía trước, theo dõi bóng đối thủ. Đợi “nạn nhân” đến đúng tầm, Lâm bất ngờ làm như sửa lại thế vác, xô mạnh nguyên lưỡi cuốc ra phía sau, đúng vào mặt người vừa bước đến, khiến ông ta ngã khuỵu, gãy một hơi mấy chiếc răng cửa.
Tất nhiên Lâm chịu kỷ luật, nhưng đó Lâm khai “tôi đâu ngoảnh đầu lại mà biết cán bộ đang đi tới, chỉ vô tình sửa lại thế vác cuốc” và tại hiện trường quả đúng như vậy, nên kỷ luật tương đối nhẹ.
Rồi Lâm Chín ngón kể tiếp từ ngày được tha, anh ta buôn bán thuốc tây ở khu đường 3 tháng 2, quận 10; cuộc sống chỉ tạm đủ vá víu qua ngày. Sau Lâm hùn với một tay đàn em cũ là Mười đen ra chợ Huỳnh Thúc Kháng buôn bán hàng điện tử (nghe đâu do Năm Cam giúp đỡ). Thấy Mười đen phò Năm Cam, và không muốn mang tiếng nhờ vả núp bóng đàn em, Lâm tách ra toan trở lại nghề bảo kê cho một số quầy bar quanh khu vực Tân Sơn Nhất. Có lẽ đây là quãng thời gian tuy ngắn ngủi nhưng lại có nhiều kỷ niệm đối với Lâm Chín ngón cũng như một số dân chơi khác. Nào mấy ai ngờ một “ông tướng” nay lại lại phải kiếm sống qua ngày. Nhưng thôi, cuộc đời ai chẳng có lúc lên voi xuống chó.
Và Lâm kể cho tôi nghe một kỷ niệm “nhớ đời” của anh ta trong quãng thời gian ngắn ngủi này…
Đại ca thứ thiệt
Một tối nọ, có bọn thanh niên lực lưỡng, mặt mày bặm trợn, chỉ cần liếc qua tướng tá, quần áo, cử chỉ cũng biết ngay là dân giang hồ không phải loại tầm thường vô quán đòi ngồi ở phòng riêng, kêu bọn em gái bia ôm hầu bàn. Ăn đã đời từ hơn 7h tối gần 11h đêm, uống hết hơn một thùng bia, bọn họ mới gọi tính tiền. Nhưng khi giấy tính tiền đưa tới bàn, họ thậm chí không thèm liếc nhìn qua tờ giấy, mà một vị khách thọc tay vô bụng rút luôn ra… khẩu súng ngắn, dằn mạnh lên mặt bàn, buông thõng một câu xanh rờn:
- Không có tiền, trả bằng thứ này được không?
Các “em gái” hoảng hồn la oai oái, tranh nhau chạy ra khỏi phòng. Chủ quán nghe mấy em cấp báo, lính quýnh vừa run vừa kêu Lâm Chín ngón đến giải quyết. Lâm mở cửa bước vô phòng, việc đầu tiên là nhào đến chụp ngay khẩu súng, tất nhiên khôn ngoan cầm phía bá súng. Gã thanh niên hớt tóc ngắn to con nhất trong bọn, có vẻ là tay cầm đầu, cũng nhanh như chớp vung tay chộp súng, kéo lại, miệng quát:
- Ê, mày làm gì vậy?
Lâm bình tĩnh:
- Các anh nói trả thứ này thay cho tiền nên tôi lấy!
Video đang HOT
Nghe đối thủ trả lời cứng cựa, gã không thèm đáp mà ra sức giành lại vũ khí. Hai bên cùng nín thở thi triển 10 thành công lực, gồng hết cơ bắp, thử sức một phen cho rõ tài cao thấp. Kéo qua kéo lại, một lát sau Lâm Chín ngón dần dần thắng thế thấy rõ, có thể một phần do anh ta nắm ngay bá súng nên chiếm lợi thế nhờ có điểm tựa chắc chắn hơn. Dù sao, với dân chơi thứ thiệt, hễ thua thì nhận thua. Gã tóc ngắn đành buông súng ra, kêu:
- Khá lắm, khá lắm. Mày làm gì ở đây mà dám can thiệp vào chuyện của bọn tao?
- Đây là quán của người quen tôi, nhờ tôi coi giúp. Nuôi quân ba năm nhờ đến một giờ. Đây là nồi cơm của tôi nên tôi phải giựt. Nếu tôi tới quán mấy anh quấy, chắc chắn mấy anh cũng phải làm như tôi thôi.
Vừa nói Lâm vừa chìa tay đưa lại khẩu súng cho đối thủ, thêm: – “Chó lửa” của các anh đây. Thử sức cho vui vậy thôi, chớ tôi biết các anh nói giỡn, vì đây là đồ làm ăn, vật bất ly thân của các anh đời nào các anh trả cho quán; và lại nếu tính trị giá, nó hơn hẳn tiền ăn nhậu từ tối đến giờ.
Tên tóc ngắn dịu giọng:
- Nói nghe có lý lắm. Nếu vậy cũng là anh em trong nhà cả, không lẽ chơi quỵt nhau. Được rồi. Không nhận súng thì lấy thứ này vậy!
Nhanh hơn cả làm trò ảo thuật, hắn rút trong túi ra một trái lựu đạn đặt cái “cộp” lên mặt bàn.
Nhiều tiếng la oai oái nổi lên phía ngoài cửa phòng và tiếng chân chạy rầm rập. Thì ra nãy giờ chủ quán và mấy “em gái” thập thò ngoài cửa theo dõi diễn biến tình hình, nay hoảng quá tranh nhau co giò manh ai nấy chuồn cho lẹ.
Lâm vội quay người một vòng, đưa chân đá cánh cửa. “Sầm” một tiếng, cánh cửa khoá tự động đã đóng lại. Lâm Chín ngón cố giở giọng thản nhiên:
- Lỡ chơi thì chơi luôn! Một đổi bốn còn lời chán! Và lại đời tôi sống cũng đủ lắm rồi. Cứ cho nổ!
Tính dằn mặt đối thủ, ai dè gặp thứ thiệt, đám thực khách không còn cách nào khác hơn là chấp nhận xuống nước. “Trời không chịu đất thì đất đành phải chịu trời”. Tên có hàm râu quai nón trong bọn lên tiếng, đổi giọng:
- Thấy anh nãy giờ tôi nghĩ không phải thứ mới vào nghề chưa có số má gì. Anh nói thật cho tụi tôi biết anh là ai?
Lâm thở dài:
- Từ lâu lắm tôi đã cố quên tên của mình. Nay các bạn hỏi tôi cũng xin nói thiệt. Cách nay hơn mười năm tôi cũng tạm gọi là có chút danh vọng. Anh em trong giới giang hồ khi ấy quen gọi tôi là Lâm Chín ngón.
Cả bốn tên đều bất giác đứng bật dậy, gã tóc ngắn hỏi:
- Anh là Lâm Chín ngón? Đâu, anh cho xem bàn tay trái thử coi.
Lâm Chín ngón vốn là biệt danh của Lâm sau một trận đụng độ ác liệt giữa hai nhóm dân chơi của Đại Cathay và Tín Mã Nàm tại ngay trước khu Đại Thế Giới. Trong trận kịch chiến này, khi cố giải cứu Ba Thế, một trong “tứ đại ca” (Đại, Tỳ, Cái, Thế), Lâm bị một thanh mã tấu xớt mất ngón tay cái của bàn tay trái. Nãy giờ, khi thử sức Lâm dùng tay phải nên chưa ai thấy bàn tay trái của anh ta.
Khi Lâm vừa xoè bàn tay trái với bốn ngón ra thì cả bọn đưa đưa cả hai tay ôm vai anh ta, đứa cấm tay lắc lấy lắc để, đứa chắp hai tay xá lia lịa:
- Xin lỗi đại ca, xin lỗi. Nãy giờ tụi em không biết lỡ xúc phạm đến đại ca. Anh em trong nhà cả, đại ca không nói sớm. Đâu, chủ quán đâu?
Thì nãy giờ chủ quán nấp ngay sau cánh cửa chớ đâu. Vừa nghe gọi lập tức chủ quán bước vô phòng…
Tên hớt tóc ngắn bảo:
- Đưa hoá đơn tính tiền coi!
Chủ quán đã lấy lại bình tĩnh:
- Đã đưa khi nãy đưa rồi mà.
Tên râu quai nón cúi xuống gầm bàn lượm tờ giấy lên, đọc:
- Một triệu bốn trăm năm mươi ngàn. Tưởng nhiều, nhiêu đó nhằm gì!
Gã móc túi lấy ra chiếc khăn, mở ra, bỗng gói vội lại, kêu “Lộn rồi!”. Nhưng Lâm đã kịp nhìn thấy một đống nhẫn, dây chuyền, đồng hồ… trong khăn, đoán chừng bọn này vừa “ăn hàng” về, vô quán ăn mừng. Gã móc túi bên kia, phen này thì đúng là một bọc tiền. Tên hớt tóc ngắn giọng xởi lởi:
- Trả luôn một triệu năm trăm ngàn cho chẵn. Ủa, còn mấy em gái khi nãy đâu?
Thấy tình hình đã lắng dịu, “phe mình” thắng thế, mấy em gái bia ôm thập thò ngoài cửa phòng, chỉ chờ cơ hội là ăn theo, nhanh nhen bước vô. Một tên khác bảo:
- Bo mỗi em một trăm ngàn chịu không?
Thì mấy em chịu quá đi chớ! Tiền bạc xong xuôi, tên hớt tóc ngắn thân mật bắt tay Lâm Chín ngón:
- Tụi em khi nãy không biết, lỡ đắc tội, đại ca bỏ quá cho. Khi nào có dịp ra Hải Phòng, đến bến Sau Kho, đại ca cứ hỏi Thanh bếp là ai cũng biết, tụi em xin tiếp đón trọng thế.
Kể xong câu chuyện, Lâm Chín ngón thở dài tâm sự: “Anh ạ, từ sau tối hôm ấy em nghĩ cái mạng mình sống chết bất cứ lúc nào nếu còn theo cái nghề bảo kê ấy mà chết lãng xẹt. Nên em quyết bỏ bằng được”.
(Còn nữa)
Theo Xahoi
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 9): Tướng cướp trốn trại, còng tay cảnh sát vô thành giường
Tôi ở tù chung với Điền Khắc Kim tại chuồng cọp khu C trại 7, Côn Đảo, một thời gian ngắn khoảng đầu đầu năm 1974.
Buồng giam những tên tội phạm giang hồ trong khu 'chuồng cọp' (ảnh minh họa)
"May hơn khôn"
Tôi bị giam ở khu C đâu khoảng vài tháng thì Điền Khắc Kim mới từ đất liền ra đảo. Dĩ nhiên Kim lập tức được tống vào khu C.
Tôi nhớ đi chung với Kim khi ấy có một số tay tù thường phạm sừng sỏ khác, mà nổi cộm hơn cả là Biện Thành Huệ và Năm Lương. Huệ được gọi "Huệ Râu" đầu gấu khu Chi Lăng (quanh sân bay Tân Sơn Nhất), nổi đình đám nhờ dám bắn chết quân cảnh Mỹ; còn Năm Lương thường gọi "Lương già" là một trong các quân sư của Đại Cathay. Số này đều được đặc cách, người một phòng, kể cả Điền Khắc Kim. Tình cờ, phòng giam bọn họ gần ngay phòng giam tôi nên mỗi khi tôi, "quay phim" tất cả đều nghe được và tỏ ra thích thú.
Tất nhiên, chỉ giờ tắm nắng tôi mới gặp Kim. Thấy hầu hết tù hình sự thường phạm gọi tôi bằng anh; xưng em; hắn hỏi tuổi tôi, và khi biết tôi lớn hơn hắn đến 4 tuổi, Kim gọi anh xưng em. Tôi còn nhớ Kim dáng người tầm thước, chỉ ngang cỡ tôi (1,63m), ốm nhách, da ngăm đen tai tái, cặp lông mày rậm và hơi xếch.
Kim có óc tưởng tượng khá phong phú. Tới nhớ có một lần, đổ thùng cầu, tắm giặt xong, hắn khoác tay tôi đi qua đi lại cho giãn gân cốt, nói đủ thứ chuyện. Bỗng hắn bảo: "Anh có biết lúc này em ước gì không?". Tất nhiên tôi không biết, Kim tiếp: "Em ước gì trời tự nhiên thiệt lạnh, biển đóng thành nước đá, anh em mình cứ thế chạy riết một hơi về đất liền". Có hôm, đang đi dạo, Kim dừng lại, bảo tôi: "Em chỉ cho anh coi cái này, thằng Thiệu (tổng thống miền Nam khi ấy) cũng chưa được coi bao giờ"," vừa nói vừa kéo lưng quần chỉ cho tôi xem vết thẹo còn đỏ hỏn ngay phía dưới rún. Kim kể tôi nghe: "Đây là vết thẹo em bị bắn khi bị vây bắt bên Quận 4, trúng đạn bị thương khá nặng mà vẫn trốn thoát, không bị bắt".
Và theo lời hắn, nào có chỉ là huyền thoại, tài ba gì ghê gớm, chẳng qua nhờ ăn may: "Em núp ngay sau gốc cây, thấy bọn cảnh sát tìm kiếm ở đâu đâu mà tức cười. Chắc chúng tưởng em phải bỏ chạy và đã chạy xa rồi. Đúng ra em cũng phải làm vậy, nhưng ngặt vết thương nặng quá nên không thể bỏ chạy nổi, ai dè thành hên". Kim còn nói thêm, lúc bị bắt trở lại, hắn khai thiệt núp ngay sau gốc cây, bọn cảnh sát không tin; vả lại, nếu đúng vậy, hóa ra cảnh sát biến thành một lũ ngốc, thế nào cũng bị cấp trên rủa cho te tua, nên buộc hắn phải "phịa" chuyện nhảy xuống kênh chạy trốn. Chứ theo Kim "Anh nghĩ thử xem, vết thương như vầy sao em dám nhảy xuống kênh quận 4, dơ hết cỡ, thế nào chẳng nhiễm trùng; và làm sao lội nước nổi, bơi nổi với mớ ruột lòi cả ra ngoài?".
Cũng vậy, Kim kể tôi nghe tiếp về vụ hắn trốn thoát khi bị bắt, lúc được đưa qua bệnh viện Sài Gòn để trị bệnh. Biết Kim là tên tù có biệt tài vượt ngục, cảnh sát phái một nhân viên theo canh giữ 24/24, mặc dù Kim đã bị còng một tay vào thành giường. Ấy thế mà ban đêm, Kim không những trốn thoát, mà còn còng tay tên cảnh sát vô thành giường thay cho mình. Chính qua vụ này, báo chí lúc ấy thổi phồng Kim quá đáng, coi như hắn có tài xuất quỉ nhập thần.
Thật ra, chẳng phải quỉ thần gì, bởi theo lời Kim kể: "Bị còng tay vô thành giường, em buồn chán, cả ngày nằm ngủ. Ngủ suốt ngày khiến ban đêm không ngủ nổi nữa, hai mắt cứ thao láo. Ngược lại, gã cảnh sát canh chừng em đương nhiên phải thức cả ngày, nên khoảng nửa khuya hắn gục xuống ngủ say như chết. Thấy thời cơ đã đến, cái thứ còng răng ai đã bị qua rồi thì lạ gì: Chịu khó bóp hết răng còng - em ốm nhách, cỡ tay nhỏ nên ráng chịu đau chút xíu là xong - lấy bất cứ thứ gì, thường là cọng chiếu, cài ngang là kéo ra cái rột. Thoát còng, em đã định chuồn êm, nhưng thấy gã cảnh sát ngủ vùi chợt nảy ý nghĩ vui vui, lấy còng còng tay hắn vô thành giường trước khi chuồn...".
Có lần, cũng trong giờ tắm nắng, vui miệng tôi hỏi Kim trong những lần "làm án" có kỷ niệm nào "để đời" hay không. Kim không do dự: "Có đấy. Một lần nửa đêm về sáng, em "đột vòm", lọt vô một căn nhà ở Cư xá Đô thành. Thông thường, việc làm đầu tiên của em khi vô nhà là mở sẵn cửa chính, khép hờ, đề phòng khi bị phát hiện vọt cho lẹ. Nhà có chiếc xe gắn máy mới tinh, thấy bắt thèm. Em lục túi quần áo của tay chủ nhà treo trên móc áo kiếm tiền. Ai dè trong túi ngoài tiền bạc, giấy tuỳ thân của chủ nhà lại còn có đầy đủ giấy tờ xe và luôn cả chìa khóa. Vậy là em chỉ việc mở cửa, dắt xe, ung dung lên xe dông tuốt, chưa khi nào ăn hàng ngon bằng bữa ấy!".
Tuy vậy, Điền Khắc Kim không được những tay giang hồ cộm cán mấy nể trọng. Những tay giang hồ này chê Kim không dám đâm chém, dưới trướng lại không có đệ tử, nên gọi hắn là "tướng cướp cô độc".
Trong thời gian ở chung khu C trại 7 với tôi, tôi để ý thấy các đàn anh Huệ Râu, Lương già cũng chỉ đối xử với Kim như đàn em, và Kim đối với những tay này cũng không hé dám tỏ ra "trên cơ", thậm chí ngang cơ bao giờ.
Cả bọn trật tự coi khu, tuy phần nào nể Kim, nhưng rõ ràng chỉ coi hắn thuộc loại có số má, nhưng chưa phải đại ca gì ghê gớm lắm (như đối xử với cỡ Huệ Râu, và sau này là Lâm Chín ngón, Tuấn Đả, Khương đại). Tiếc rằng thời gian Kim ở Côn Đảo không bao lâu, vì chỉ khoảng trên dưới một tháng sau hắn lại được đưa về đất liền để điều tra về một vụ án khác. Về sau nghe nói ở Côn Đảo về, Kim bị nhốt ở Vị Thanh, và đã vượt ngục tại đây.
Tướng cướp Điền Khắc Kim
Đêm 30/4/1975 tại khu C
Những ngày cuối tháng 4/1975, nằm trong khu C, chúng tôi vẫn chưa hay biết một chút nào về tình hình chiến sự bên ngoài.
Chúng tôi chỉ ghi nhận hai điều là: Thứ nhất là cả bọn trật tự khu, kể luôn Sang lai, cũng đều bị cấm ra khỏi khu C (trước giờ chúng thường được đặc cách cho ra khỏi khu, khỏi trại - trừ ban đêm - để dạo phố Côn Đảo, mua đồ ăn thức uống, thăm bạn bè...). Sau này tôi mới đoán chừng có lẽ bọn giám thị sợ số trật tự nắm được tình hình bất lợi cho bọn chúng sẽ nói lại với anh em tù chính trị. Thứ hai, tuy nằm trong trại biệt giam nhưng vẫn nghe tiếng máy bay gầm rú, hình như lên xuống liên tục tại sân bay Côn Đảo. Mãi đến sau ngày giải phóng, tôi mới nghe kể lại, vào ngày 28 hoặc 29/4 gì đó, trong số máy bay lên xuống có một trực thăng từ đất liền bay ra, thả xuống ngay giữa thị trấn Côn Đảo mảnh vải lớn có hàng chữ ghi nội dung vắn tắt Sài Gòn đã thất thủ, mạnh ai nên tự tìm đường nấy trốn.
Khoảng tám giờ tối 30/4/1975, chúng tôi nghe văng vẳng hình như bên phía mấy khu khác của trại 7 có tiếng thông báo, nhưng tiếng được tiếng mất. Lúc ấy chân phải tôi bị liệt, đi lại rất khó khăn, nên người bạn bàn với tôi, tôi ráng đứng trụ để anh leo lên vai tôi, hóng tai ra ngoài nghe thử (như đã mô tả, phía sau mỗi chuồng cọp đều có khoảng trống nhỏ thông hơi với nhiều song sắt. Tù nhân thường đòng đòng nhau cố đưa miệng qua khoảng trống này để thông báo tình hình cho nhau). Tuy nhiên anh bạn dù dỏng tai cố nghe, vẫn tiếng được tiếng mất không rõ anh em nói những gì.
Bọn tù thường phạm bị những tiếng nói vang vang kia quấy phá, cộng thêm nỗi bực tức vì bị nhốt cả tuần nay khiến chúng lớn tiếng chửi thề và hăm dọa. Tôi không tiện ghi hết những lời thô tục của bọn chúng, chỉ xin nói đại khái: "Câm họng cho ông ngủ", "Ngày mai ông sẽ cho biết tay", "Bộ chúng mày hết muốn sống rồi hay sao"... Những tiếng chửi thề và lời lẽ hung hăng của chúng chứng tỏ quả thật chúng không hay biết gì về những diễn biến của thời cuộc bên ngoài. Tất cả những sự ồn ào, nhộn nhạo này khiến chúng tôi không thể nào nhắm mắt nổi. Anh bạn và tôi suy đoán đủ thứ, nhưng không hề nghĩ rằng miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng vào lúc ấy.
Đến khoảng quá nửa đêm, những tiếng ồn ào ngày càng vang lên từ xa xa, mơ hồ hình như có tiếng la "Giải phóng rồi! Giải phóng rồi!". Anh bạn và tôi còn đang bán tín bán nghi thì tiếng ồn ào càng lúc càng lại gần, càng rõ hơn. Rồi, chúng tôi không dám tin ở tai mình, và ngay cả mắt mình nữa: Tiếng loảng xoảng mở cửa khu C, rất nhiều người ùa vào. Có tiếng ai đó hỏi: "Anh em tù chính trị ở phòng nào?". Chúng tôi vừa lên tiếng đã thấy khóa phòng mở toang...
Từ đó cho đến tận mấy ngày sau, tôi như sống trong giấc mơ. Mọi diễn biến quá nhanh khiến tôi không kịp suy nghĩ, trí óc cứ bồng bềnh, phiêu lãng tận đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ lập tức tôi được dìu ra bệnh xá, thuốc men, ăn uống chăm sóc tối đa. Trong khi những anh em tù chính trị mới được thả ra tung tăng đi lại khắp Côn Đảo, dự mít tinh, giữ trật tự, bắt bọn giám thị tống vô trại giam... thì tôi nằm bẹp một chỗ, những anh em quen biết tới thăm hỏi, quà cáp liên tục.
Tôi còn nhớ rõ, vừa khi ấy Côn Đảo hình như bắt được một tàu đánh cá hay sao đó, đem lên không biết bao nhiêu cá ngừ và cá thu mang nướng, rồi bắt được vích (rùa biển) nấu cà-ri, giết heo, mổ bò, thức ăn dồi dào không cách nào ăn hết, ăn cho bõ những ngày chỉ toàn cá khô mục đắng nghét hoặc mắm kho lõng bõng nước. Đã thế, số anh em nằm bệnh xá còn được chăm sóc đặc biệt bằng cách làm thịt một chú cẩu gọi là để "bồi dưỡng".
Nằm chữa và dưỡng bệnh, tôi nghe kể vô số chuyện thú vị về Côn Đảo những ngày đầu giải phóng. Nào giám thị trưởng Nguyễn Văn Thà tức Ba Thà bắn súng vào đầu tự sát ngay tại nhà riêng. Nào Chín Khương, trưởng ban chuyên môn tại Côn Đảo (ban giám thị chuyên theo dõi, đàn áp và đánh đập tù chính trị), dùng thuyền nhỏ chạy tuốt ra hòn Bãi Cạnh nhưng bị anh em đuổi theo bắt được, nhốt vô chuồng cọp (đúng là ác giả ác báo)... Rồi chuyện bọn địch có chỉ thị ném vô mỗi chuồng cọp một trái lựu đạn để tiêu diệt hết anh em, nhưng nhờcha xứ nhà thờ Côn Đảo, một đại úy địa phương quân quân đội Sài Gòn, và một giám thị tốt bụng nên âm mưu độc ác này đã không thể thực hiện...
Riêng số tù hình sự ở chung khu C trại 7 với tôi, tôi bẵng đi quên không hỏi đến và cũng không nghe ai nói đến. Thực ra, vào thời điểm lịch sử như vậy, nào ai để ý tới chuyện lặt vặt của mấy anh chàng du đãng đang bị nhốt?
Bản thân tôi, như đã nói, như sống trong giấc mơ cho đến ngày có hai chiếc tàu của hải quân cập bến Côn Đảo để chở tù chính trị về đất liền. Sức chứa mỗi tàu chỉ khoảng 150 người, mà tù chính trị tại Côn Đảo lên tới hơn 5.000 người thì làm sao chở hết. Cho nên, trên hai chuyến tàu đầu tiên rời đảo chỉ ưu tiên cho những anh chị em bệnh tật, già yếu, trong đó có tôi.
Tàu thả neo tại Vũng Tàu, ngay bên cảng Rạch Dừa, xe hơi đón anh chị em về Sài Gòn. Nhưng khi mới giải phóng, cầu Cỏ May bị đánh sập chưa sửa kịp nên phải "tăng bo" qua khúc sông này. Vì vậy, số ít anh chị em do bệnh quá nặng hoặc đi lại khó khăn được đưa vô bệnh viện Vũng Tàu điều trị, chờ thuyên giảm mới về Sài Gòn sau. Số này chỉ đâu khoảng hơn 20 người, và do đó tôi tiếp tục vô nằm bệnh viện Vũng Tàu.
Số phận của tù nhân du đãng trong chuồng cọp
Mãi sau này, gặp lại Huế Râu, Hùng Be tại TP.HCM, tôi mới nghe kể lại tình hình của khu C ngay sau ngày giải phóng.
Tù chính trị trong khu C được thả ra, còn số tù hình sự đươngnhiên vẫn bị nhốt trong chuồng cọp. Mọi sinh hoạt của số tù nhân này vẫn diễn ra bình thường, có điều ngay qua ngày hôm sau, anh em tù hình sự mà cầm đầu là các "đại ca" bắt Sang lai trả món nợ máu. Họ hoà một chén gồm phân và nước tiểu, bắt Sang lai quì xuống, ra điều kiện: Hoặc hắn phải uống hết chén nước rất mất vệ sinh đó, hoặc chịu bề hội đồng (nghĩa là xúm nhau đánh cho thừa sống thiếu chết). Sang lai hết khóc lóc lại lạy như tế sao van xin tha tội, nhưng cuối cùng không còn cách nào khác đánh ục một hơi hỗn hợp trong chén.
Rồi có lẽ do anh em tù chính trị quá lo "đại sự", chỉ đối phó với bọn giám thị trại giam và vô số công việc hành chánh khác mà quên phắt số tù hình sự này và mặc kệ bọn họ muốn làm gì thì làm. Vậy là bọn họ chia thành hai "trường phái": Một cứ mặc kệ, sống tà tà chờ mọi chuyện tới đâu thì tới. Huế Râu, Lâm Chín ngón thuộc nhóm này. Một nhân cơ hội tranh tối tranh sáng rủ nhau phá kho tang vật, cướp bóc đồ đạc, lên núi tìm cách kết bè trốn về đất liền. Tuấn Đả, Khương Đại, Hải Méo cầm đầu nhóm này.
Kết quả nhóm thứ hai phá được kho tang vật, lấy đi khá nhiều tiền bạc, đồng hồ, nữ trang... mà tù nhân buộc phải ký gởi tại kho một khi vừa bước chân lên Côn Đảo. Cướp được đồ, bọn chúng hí hửng trốn vào rừng núi Côn Đảo. Nhưng Côn Đảo vốn hẹp, chỗ đâu mà trốn? Lại nữa vô núi đào đâu ra thực phẩm, nước uống? Đóng thuyền kết bè nào phải ngày một ngày hai? Chẳng mấy lúc, bọn chúng lần lượt bị bắt sạch không còn một mống. Và theo chế độ quân quản khi ấy, tất cả bọn chúng đều bị mang ra xử bắn. Nhóm thứ nhất gần như sau đó đều được xét thả tự do.
Mãi tới bây giờ, thỉnh thoảng trong những giấc mơ tôi vẫn thấy mình bồng bềnh nằm trong chuồng cọp khu C trại 7 Côn Đảo cùng sống chung với số tù hình sự, có lẽ do những hình ảnh này đã ăn sâu vào tiềm thức, chiếm một vị trí nhất định nào đó trong bộ nhớ của tôi, không có cách nào xóa sạch.
Còn nữa
Theo Xahoi
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 7): Sát thủ bị 'con mồi' hạ sát vì ham hố một chai rượu Cognac Mối thù vẫn nung nấu, nhưng phải mất đến gần một năm trời, Sơn Đảo mới tìm được kẻ thay cho Tuấn Đả: Gã tên Nguyễn Văn Hoàng, biệt danh Hoàng Đầu lâu. Gã sát thủ Sài Gòn đã bị chính 'con mồi' hạ sát bằng một chai rượu (ảnh minh họa) "Con bài" Hoàng đầu lâu Nói về võ nghệ, cả trại...