Giảm thuế cho người lao động, cho xăng… vẫn chờ
Giá hàng hóa tăng mạnh khiến thu nhập người dân ngày càng teo tóp, nhưng đề xuất miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đã gần 2 năm nay vẫn chưa được xem xét; xăng tác động lớn nhất đến CPI nhưng kiến nghị giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng để giảm giá xăng dầu mấy tháng nay vẫn nằm trên giấy.
Thuế thu nhập cá nhân chờ tính bằng năm
“Quá mệt mỏi khi nhiều năm qua đề xuất, kiến nghị cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung những điểm bất hợp lý của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cho phù hợp với tình hình thực tế nhưng vẫn bặt vô âm tín. Thuế này chiếm tới hơn 70% trong tổng số thu, nhưng người làm công ăn lương không thể tập hợp được tiếng nói để lên tiếng…”, ông Trần Xoa, Giám đốc Công ty luật Minh Đăng Quang, thở dài khi nói về thuế TNCN. Năm 2020, mức giảm trừ gia cảnh được điều chỉnh tăng từ 9 triệu đồng/tháng lên 11 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và từ 3,6 triệu đồng/tháng lên 4,4 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc. Nhưng đây chỉ là lần điều chỉnh mang tính tình thế khi chỉ số CPI vượt qua 20% theo quy định chứ không phải là chính sách hỗ trợ người lao động khi dịch Covid-19 bùng phát. Ngay ở lần điều chỉnh này, các ngưỡng thuế đã lạc hậu.
Nhiều chính sách về thuế quá chậm thay đổi, gây khó cho người dân, doanh nghiệp. Ảnh NGỌC THẮNG
Trước đó, năm 2017, Bộ Tài chính đã đưa ra tờ trình dự thảo sửa đổi, bổ sung những bất cập của luật Thuế TNCN nhưng sau đó chìm xuống, không được đề cập đến để có những sửa đổi tổng thể. Một số bất cập được đề cập từ cách đây 5 năm như rút ngắn bậc thuế biểu lũy tiến đối với người làm công ăn lương từ 7 xuống 5, thu nhập vãng lai tăng từ 2 triệu đồng lên 5 triệu đồng mới phải trừ thuế… cũng chưa được giải quyết. Thuế đứng yên trong khi bão giá càn quét khiến thu nhập của người lao động ngày càng teo tóp, chất lượng bữa ăn, chất lượng cuộc sống suy giảm. Suốt 2 năm qua, ông Trần Xoa nhiều lần kiến nghị cần giảm thuế TNCN ngay để có thể bù đắp mức tăng giá cả hàng hóa trong mấy năm qua, mức giảm ít nhất cũng bằng với thuế thu nhập doanh nghiệp (DN) hiện đang được hưởng là 30%.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Ngọc Tú, giảng viên Trường ĐH Kinh doanh và công nghệ Hà Nội, nói: Cứ chờ đợi sửa luật Thuế TNCN thì không biết đến chừng nào trong khi người làm công ăn lương đang phải chịu quá nhiều áp lực từ cuộc sống. Hơn 70% tổng số thu đến từ nguồn tiền lương, tiền công, vì vậy cần có quyết sách giảm ngay 50% thuế TNCN cho người lao động trong 6 tháng cuối năm. Chính sách này nhằm chia sẻ, động viên họ suốt mấy năm qua trải qua những khó khăn, đồng thời góp phần hỗ trợ cuộc sống của họ. “Đừng nên quá tính toán đối với người chịu thuế làm công ăn lương mà cần tập trung nguồn thu vào những lĩnh vực còn chưa khai thác hết như thương mại điện tử, nhà đất… Có như vậy mới khoan được sức dân, vì thực tế chứng minh số thu từ sắc thuế này ngày càng tăng”, ông Tú nhấn mạnh.
Việc chậm ra quyết định giảm thuế, hạ nhiệt giá xăng dầu khiến giá cả hàng hóa theo hiệu ứng domino tăng nhanh trong thời gian qua. Điều này gây thiệt hại cho nỗ lực phục hồi kinh tế.
PGS-TS Đinh Xuân Thảo, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp, thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Dữ liệu cho thấy, số thu thuế TNCN liên tục tăng lên trong nhiều năm qua. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm, sắc thuế này đã bổ sung cho ngân sách nhà nước đến 88.084 tỉ đồng, tương đương 74,5% dự toán đề ra cho cả năm 2022 là 118.075 tỉ đồng, tăng mạnh 25% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là sắc thuế có tốc độ tăng thu khá nhanh và khả năng cán đích sớm. Tốc độ tăng thu từ thuế TNCN kéo dài trong 9 năm trở lại đây. Năm 2013 (năm đầu tiên áp dụng luật Thuế TNCN, tăng mức giảm trừ gia cảnh từ 4 triệu lên 9 triệu đồng đối với người nộp thuế, từ 1,6 triệu đồng lên 3,6 triệu đồng đối với người phụ thuộc), thu thuế TNCN đạt 46.548 tỉ đồng, đến năm 2019 lên 110.000 tỉ đồng. Đáng nói, trong năm 2021, khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, gần nửa năm nền kinh tế điêu đứng, sản xuất kinh doanh tụt giảm thì thu thuế TNCN cũng tăng mạnh, lên 123.000 tỉ đồng. Trong 6 tháng đầu năm nay, số thu thuế này đã tăng gấp đôi cả năm 2013 và cao hơn cả số thu của cả năm 2017. Đến năm 2020, mức giảm trừ gia cảnh của người làm công ăn lương được điều chỉnh tăng lên 11 triệu đồng cho người nộp thuế và 4,4 triệu đồng cho người phụ thuộc. Thế nhưng, số thu cũng chỉ giảm 2.000 tỉ đồng và lại tăng mạnh thêm 15.000 tỉ đồng qua năm 2021, lên mức kỷ lục cao nhất từ trong vòng 10 năm khi đạt 123.000 tỉ đồng.
Theo các chuyên gia, thuế, lệ phí, phí cần giảm đồng loạt; không những giúp kiểm soát giá cả cũng như lạm phát mà còn giúp tăng trưởng kinh tế. Ảnh NGỌC DƯƠNG
Thuế xăng dầu cũng chỉ kiến nghị đi kiến nghị lại
Tương tự, loạt thuế đánh vào giá xăng dầu được đề nghị bỏ, giảm từ lâu, nhưng đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Từ tháng 2 năm nay, giá xăng dầu thế giới bắt đầu tăng, xăng dầu trong nước sau Tết nguyên đán cũng được điều chỉnh tăng tương ứng. Đến tháng 3, nhiều đại biểu Quốc hội và chuyên gia phân tích, giá một lít xăng đang cõng 35% các loại thuế. Là mặt hàng thiết yếu, việc giá xăng dầu tăng mạnh ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả hàng hóa trong nước. Vì vậy, nên bỏ ngay thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) với xăng, bỏ thuế bảo vệ môi trường (BVMT), giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), giảm thuế nhập khẩu… để hạ nhiệt giá xăng dầu, hỗ trợ người dân, DN phục hồi và phát triển kinh tế. Thế nhưng cũng phải đến tháng 7, việc giảm thuế BVMT mới được thông qua dưới sự thúc giục và hành động của chính Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.
“Các chính sách thuế, lệ phí, phí cần giảm đồng loạt để hỗ trợ kinh tế, có sức lan tỏa rộng hơn; không những kiểm soát giá cũng như lạm phát có xu hướng gia tăng mà còn giúp tăng trưởng kinh tế. Đừng sợ giảm thuế suất hay áp dụng các biện pháp hỗ trợ sẽ làm thất thu, giảm ngân sách nhà nước. Ngược lại, trong 30 năm qua, số thu ngân sách chưa bao giờ giảm khi triển khai các biện pháp hỗ trợ”.
Ông Nguyễn Ngọc Tú, giảng viên Trường đại học Kinh doanh và công nghệ Hà Nội
Riêng thuế TTĐB, VAT, xuất nhập khẩu với xăng dầu thì đến nay vẫn chưa có động tĩnh gì. Đáng nói, “sự im lặng” này diễn ra ngay ra trong thời điểm có nhiều dự báo giá xăng dầu thế giới sẽ tăng kỷ lục. Ngày 21.1.2022, xăng bán lẻ trong nước có giá từ 24.400 – 25.400 đồng/lít. 2 tháng sau, ngày 21.3 vọt lên 30.000 đồng/lít và tăng liên tục đến đỉnh điểm hơn 33.000 đồng/lít vào ngày 21.6. Đến tháng 6, thay vì đề xuất giảm “ngay và luôn” thuế TTĐB, thuế VAT để hạ nhiệt giá xăng sớm ngày nào hay ngày đó, Bộ Tài chính lại đề xuất điều chỉnh thuế nhập khẩu xăng dầu từ 20% xuống 12% và sau đó đề xuất giảm xuống 10%.
Cuối tháng 6, dưới sức ép dư luận, Bộ Tài chính cho biết đã báo cáo Thủ tướng đề xuất phương án giảm thuế TTĐB đối với xăng và giảm thuế VAT đối với xăng dầu nhằm góp phần giảm giá mặt hàng xăng dầu, hỗ trợ người dân, DN. Thế nhưng từ đó đến nay vẫn chưa có động tĩnh gì. Mới đây, Chính phủ lại chỉ đạo Bộ Tài chính xem xét giảm thuế VAT cho xăng dầu và TTĐB cho xăng, và chưa biết bao giờ các đề xuất này mới được đưa ra xem xét, thực hiện.
Video đang HOT
Vấn đề là các đề xuất giảm thuế, ý kiến của các lãnh đạo cao cấp đưa ra rất sớm, song chẳng hiểu tại sao các đề xuất lại khá chậm và kéo dài. Ngay thuế TTĐB, được đề xuất giảm từ rất sớm, nhưng tình hình có thể chờ đến kỳ họp Quốc hội vào tháng 10 tới mới được trình.
Giảm thuế nên được áp dụng ngay lập tức
Theo PGS-TS Đinh Xuân Thảo, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc đề xuất giảm các loại thuế một cách hợp lý để hỗ trợ giảm giá xăng dầu có thể do Bộ quản lý đề xuất, Chính phủ trình, thì có thể quyết nhanh tại các cuộc họp bất thường của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức và có thể báo cáo Quốc hội sau. Ngoài ra, Chính phủ có quyền sử dụng thẩm quyền của mình theo Nghị quyết Quốc hội để quyết trong tình huống nền kinh tế cần những quyết sách nhanh, kịp thời, hiệu quả.
Chuyên gia này nhận xét: “Việc chậm ra quyết định giảm thuế, hạ nhiệt giá xăng dầu khiến giá cả hàng hóa theo hiệu ứng domino tăng nhanh trong thời gian qua. Thế nên, trong tháng 7, dù giá xăng dầu giảm mạnh, giá cả hàng hóa vẫn không về lại như trước được. Điều này gây thiệt hại cho nỗ lực phục hồi kinh tế. Một mặt muốn giảm thuế, nhưng cơ quan quản lý tài chính lại lo lắng ảnh hưởng nguồn thu. Trong thực tế, thu ngân sách 6 tháng đầu năm tăng mạnh, thu từ xăng dầu cũng tăng mạnh, DN trong ngành này lại báo lãi hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng. Rất tiếc cho đề xuất giảm thuế TTĐB lại không “bắt nhịp” với tình hình giá thế giới để người dân, DN và nền kinh tế phục hồi tốt hơn”.
Ở một góc nhìn khác, ông Nguyễn Ngọc Tú cho rằng các DN đang cố gắng khôi phục các hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn này nhưng ngoài chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa cần phát huy, trợ lực hơn nữa để họ có thể tăng trưởng. Ngoài môi trường đầu tư, các DN, cá nhân cần được giảm chi phí hơn nữa để có điều kiện giảm chi phí giá thành, điều này cũng góp phần nào việc kiểm soát lạm phát. Để có thể giảm chi phí, có nhiều chính sách thuế, phí, lệ phí cần được hỗ trợ giảm ngay lập tức vì nó còn cần thời gian để đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng.
Cụ thể hơn, ông Nguyễn Ngọc Tú cho rằng đối với giá xăng dầu, cần tiếp tục giảm thêm thuế TTĐB. Một sắc thuế có tác động hiệu quả tức thời giúp giá cả hàng hóa dịch vụ giảm, đó là giảm thuế VAT xuống 50%. Chính sách nên áp dụng đồng loạt đối với tất cả hàng hóa dịch vụ nhằm đỡ rắc rối cho DN thực hiện, giảm hiện tượng lách, tham nhũng, không phải xin – cho; đồng thời triển khai thực hiện ngay mà không chờ đợi hướng dẫn. Hiệu ứng của chính sách này có sức lan tỏa mạnh nên cần thực hiện nhanh trong bối cảnh lạm phát tăng. Bên cạnh đó, chính sách gia hạn, giảm thuế thu nhập DN cũng cần được tiếp tục triển khai qua năm 2023. Gia hạn thuế sẽ giúp cho DN có được nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần sớm điều chỉnh mức thuế suất thuế thu nhập DN xuống 17% thay vì 20% như hiện nay. Thực tế, DN đóng thuế thu nhập DN có khi lên đến 23 – 25% bởi một số chi phí không được công nhận khấu trừ. Việc điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập DN ngoài việc hỗ trợ DN cũng là phù hợp với thông lệ quốc tế. Một vấn đề mà cơ quan chức năng hiện nay đang nợ DN, đó là điều chỉnh thuế suất đối với DN vừa và nhỏ thấp hơn mức 20% cần sớm thực hiện. DN vừa và nhỏ là đối tượng dễ bị tổn thương, do đó cần sớm triển khai chính sách hỗ trợ này. Ngoài thuế, các DN, cá nhân hiện nay còn chịu nhiều loại phí, lệ phí khác như lệ phí trước bạ nhà, xe; phí giao dịch ngân hàng; phí giao thông… cũng cần giảm đồng loạt.
Gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất năm 2022
Ngày 28/5, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký Nghị định số 34/2022/NĐ-CP gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2022.
Người dân làm thủ tục về thuế. Ảnh minh họa: Thùy Dung/TTXVN
Đối tượng được gia hạn gồm:
1. Doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động sản xuất trong các ngành kinh tế sau:
a) Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản;
b) Sản xuất, chế biến thực phẩm; dệt; sản xuất trang phục; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác; sản xuất kim loại; gia công cơ khí; xử lý và tráng phủ kim loại; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất ô tô và xe có động cơ khác; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế;
c) Xây dựng;
d) Hoạt động xuất bản; hoạt động điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm và xuất bản âm nhạc;
đ) Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên (không gia hạn đối với thuế thu nhập doanh nghiệp của dầu thô, condensate, khí thiên nhiên thu theo hiệp định, hợp đồng);
e) Sản xuất đồ uống; in, sao chép bản ghi các loại; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị); sản xuất mô tô, xe máy; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị;
g) Thoát nước và xử lý nước thải.
2. Doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động kinh doanh trong các ngành kinh tế sau:
a) Vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trú và ăn uống; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội; hoạt động kinh doanh bất động sản;
b) Hoạt động dịch vụ lao động và việc làm; hoạt động của các đại lý du lịch, kinh doanh tua du lịch và các dịch vụ hỗ trợ, liên quan đến quảng bá và tổ chức tua du lịch;
c) Hoạt động sáng tác, nghệ thuật và giải trí; hoạt động của thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các hoạt động văn hóa khác; hoạt động thể thao, vui chơi giải trí; hoạt động chiếu phim;
d) Hoạt động phát thanh, truyền hình; lập trình máy vi tính, dịch vụ tư vấn và các hoạt động khác liên quan đến máy vi tính; hoạt động dịch vụ thông tin;
đ) Hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai khoáng.
3. Doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; sản phẩm cơ khí trọng điểm.
4. Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ được xác định theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 và Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
5. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện các giải pháp hỗ trợ khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngành kinh tế, lĩnh vực của doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh quy định tại (1), (2),
(3) nêu trên là ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát sinh doanh thu trong năm 2021 hoặc 2022.
Gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế giá trị gia tăng phát sinh phải nộp
Nghị định quy định gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất.
Cụ thể, đối với thuế giá trị gia tăng (trừ thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu), gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế giá trị gia tăng phát sinh phải nộp (bao gồm cả số thuế phân bổ cho các địa phương cấp tỉnh khác nơi người nộp thuế có trụ sở chính, số thuế nộp theo từng lần phát sinh) của kỳ tính thuế từ tháng 3 đến tháng 8/2022 (đối với trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo tháng) và kỳ tính thuế quý I, quý II/2022 (đối với trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo quý) của các doanh nghiệp, tổ chức. Thời gian gia hạn là 06 tháng đối với số thuế giá trị gia tăng từ tháng 3 đến tháng 5/2022 và quý I/2022, thời gian gia hạn là 05 tháng đối với số thuế giá trị gia tăng của tháng 6/2022 và quý II/2022, thời gian gia hạn là 04 tháng đối với số thuế giá trị gia tăng của tháng 7/2022, thời gian gia hạn là 03 tháng đối với số thuế giá trị gia tăng của tháng 8/2022. Thời gian gia hạn được tính từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Trường hợp người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế được gia hạn dẫn đến làm tăng số thuế giá trị gia tăng phải nộp và gửi đến cơ quan thuế trước khi hết thời hạn nộp thuế được gia hạn thì số thuế được gia hạn bao gồm cả số thuế phải nộp tăng thêm do khai bổ sung.
Các doanh nghiệp, tổ chức thuộc đối tượng được gia hạn thực hiện kê khai, nộp Tờ khai thuế giá trị gia tăng tháng, quý theo quy định của pháp luật hiện hành, nhưng chưa phải nộp số thuế giá trị gia tăng phải nộp phát sinh trên Tờ khai thuế giá trị gia tăng đã kê khai. Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của tháng, quý được gia hạn như sau:
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 3/2022 chậm nhất là ngày 20/10/2022.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 4/2022 chậm nhất là ngày 20/11/2022.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 5/2022 chậm nhất là ngày 20/12/2022.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 6/2022 chậm nhất là ngày 20/12/2022.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 7/2022 chậm nhất là ngày 20/12/2022.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 8/2022 chậm nhất là ngày 20/12/2022.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế quý I/2022 chậm nhất là ngày 30/10/2022.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế quý II/2022 chậm nhất là ngày 31/12/2022.
Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức có các chi nhánh, đơn vị trực thuộc thực hiện khai thuế giá trị gia tăng riêng với cơ quan thuế quản lý trực tiếp của chi nhánh, đơn vị trực thuộc thì các chi nhánh, đơn vị trực thuộc cũng thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng. Trường hợp chi nhánh, đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp, tổ chức tại (1), (2), (3) nêu trên không có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc ngành kinh tế, lĩnh vực được gia hạn thì chi nhánh, đơn vị trực thuộc không thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng.
Gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp quý I, quý II/2022
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp của quý I, quý II kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2022 của doanh nghiệp, tổ chức thuộc đối tượng được quy định nêu trên.
Thời gian gia hạn là 3 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức có các chi nhánh, đơn vị trực thuộc thực hiện khai thuế thu nhập doanh nghiệp riêng với cơ quan thuế quản lý trực tiếp của chi nhánh, đơn vị trực thuộc thì các chi nhánh, đơn vị trực thuộc cũng thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Trường hợp chi nhánh, đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp, tổ chức tại (1), (2), (3) nêu trên không có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc ngành kinh tế, lĩnh vực được gia hạn thì chi nhánh, đơn vị trực thuộc không thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Gia hạn thời hạn nộp tiền thuê đất đối với 50% số tiền thuê đất phát sinh phải nộp năm 2022
Đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân đối với số tiền thuế phải nộp phát sinh năm 2022 của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế, lĩnh vực quy định tại (1), (2), (3) nêu trên. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh thực hiện nộp số tiền thuế được gia hạn chậm nhất là ngày 30/12/2022.
Gia hạn thời hạn nộp tiền thuê đất đối với 50% số tiền thuê đất phát sinh phải nộp năm 2022 của doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh cá nhân thuộc đối tượng quy định đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp theo Quyết định hoặc Hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hình thức trả tiền thuê đất hàng năm. Thời gian gia hạn là 06 tháng kể từ ngày 31/5/2022 đến ngày 30/11/2022.
Quy định này áp dụng cho cả trường hợp doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân có nhiều Quyết định, Hợp đồng thuê đất trực tiếp của nhà nước và có nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh khác nhau trong đó có ngành kinh tế, lĩnh vực quy định tại (1), (2), (3) và (5) nêu trên.
Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhiều ngành kinh tế khác nhau trong đó có ngành kinh tế, lĩnh vực quy định thì doanh nghiệp, tổ chức được gia hạn toàn bộ số thuế giá trị gia tăng, số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp; hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được gia hạn toàn bộ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo hướng dẫn tại Nghị định này.
Trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế được gia hạn trùng với ngày nghỉ theo quy định thì ngày cuối cùng của thời hạn được tính là ngày làm việc tiếp theo của ngày nghỉ đó.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 28/5/2022 đến hết ngày 31/12/2022.
Có 3 loại thuế được đề xuất lùi thời hạn nộp Bộ Tài chính vừa dự thảo Nghị định về việc gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất, thuê mặt nước trong năm 2022. Ảnh minh họa: TTXVN Theo Bộ Tài chính, chính sách này sẽ góp phần tiếp tục hỗ trợ, giảm bớt khó khăn cho...