Giải trừ gánh nặng kép đồng nhiễm HIV/lao
Lao và HIV là hai bệnh dịch có mối liên quan chặt chẽ. Đồng nhiễm HIV/lao tạo ra gánh nặng kép cho toàn cầu…
Vì sao đồng nhiễm HIV/lao khiến nguy cơ t.ử von.g cao?
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), người nhiễm HIV có nguy cơ mắc bệnh lao cao gấp 18 lần so với người không nhiễm HIV. Bệnh lao là nguyên nhân gây t.ử von.g hàng đầu ở người nhiễm HIV. Sở dĩ như vậy là do hai bệnh này có mối liên hệ chặt chẽ: Khi nhiễm HIV sẽ làm suy giảm miễn dịch, khiến cơ thể dễ bị nhiễm vi khuẩn lao và phát triển thành bệnh lao. Người mắc bệnh lao lại làm tăng tốc độ nhân lên của HIV. Từ đó đẩy nhanh tiến triển của HIV bệnh thành AIDS. Chính vì thế, khi đồng nhiễm hai bệnh này dẫn đến bệnh tiến triển nặng nhanh hơn.
Ngoài ra, tình trạng đồng nhiễm HIV/lao còn gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị. Các triệu chứng lao điển hình như ho kéo dài, sốt, sụt cân có thể bị che lấp bởi các bệnh cơ hội khác ở người nhiễm HIV. Xét nghiệm vi khuẩn lao trong đờm cũng có độ nhạy thấp hơn dẫn đến chẩn đoán có thể bị thiếu sót.
Dùng thuố.c điều trị đồng thời hai bệnh cũng sẽ khiến bệnh nhân gia tăng gánh tặng tương tác thuố.c.
Khi dùng đồng thời thuố.c điều trị lao và HIV có thể gây ra tương tác bất lợi, làm tăng độc tính và giảm hiệu quả điều trị. Hơn nữa, cả hai loại thuố.c điều trị đều mang lại những tác dụng không mong muốn khiến bệnh nhân mệt mỏi.
Dự phòng bệnh lao ở người bệnh HIV như thế nào?
Theo TS.BS Hoàng Thị Phượng, nguyên Trưởng khoa Lao hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương, trên thực tế điều trị bệnh lao cho người nhiễm HIV vẫn còn rất nhiều khó khăn. Đa số bệnh nhân HIV mắc lao thường ở giai đoạn cuối, chuyển sang giai đoạn AIDS. Khi điều trị phải dùng cả thuố.c lao và HIV. Hai nhóm thuố.c này có thể xuất hiện những tác dụng phụ bất lợi. Ví dụ như dị ứng thuố.c, suy gan, suy thận. Hơn nữa, lúc đó thể trạng của bệnh nhân rất kém, suy kiệt, gầy yếu, việc dung nạp thuố.c điều trị kém nên kết quả điều trị hiệu quả cũng bị hạn chế nhiều.
Do đó giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất để giải trừ gánh nặng kép là người bệnh HIV cần phải dự phòng đồng nhiễm HIV/lao. Để làm được điều này, tại cơ sở điều trị HIV cần thực hiện 3 chiến lược gồm:
Phát hiện tích bệnh lao
Điều trị lao tiềm ẩn lao
Kiểm soát nhiễm khuẩn lao
Đối với người nhiễm HIV, điều trị sớm bằng ARV sẽ làm giảm tỷ lệ mắc lao cũng như tỷ lệ t.ử von.g do lao. Người bệnh nhiễm HIV cần được thăm khám và tuân thủ điều trị theo đúng phác đồ.
Tại cơ sở điều trị, cần thực hiện phân loại bệnh nhân đến khám, xác định nhanh các trường hợp nghi mắc bệnh lao; ưu tiên khám trước cho các bệnh nhân nghi lao; cần chẩn đoán sớm, cách ly và điều trị lao kịp thời để tránh lây nhiễm sang bệnh nhân khác.
Đối với nhân viên y tế, cần sử dụng các biện pháp bảo hộ và dự phòng phù hợp. Nếu nghi ngờ có mắc lao cần chẩn đoán, điều trị sớm, đăng ký và báo cáo bệnh do nghề nghiệp.
Tại khu vực chờ hoặc nơi khám bệnh cần được thông khí tốt, có các hướng dẫn về vệ sinh khi ho, được hiển thị rõ ràng trong các khu vực có đông người bệnh.
Video đang HOT
Phát hiện tích cực bệnh lao ở người nhiễm HIV
Theo Hướng dẫn phát hiện tích cực bệnh lao ở người bệnh HIV do Bộ Y tế đã Ban hành năm 2021 cần thực hiện:
- Phát hiện tích cực bệnh lao ở người nhiễm HIV được cơ sở y tế thực hiện định kỳ, nhằm hỗ trợ chẩn đoán sớm bệnh lao ở người nhiễm HIV và điều trị lao tiềm ẩn cho người nhiễm HIV không mắc bệnh lao.
- Phát hiện tích cực bệnh lao ở người nhiễm HIV được thực hiện thông qua việc khám bệnh, sàng lọc lao bằng triệu chứng và có thể kết hợp với các xét nghiệm kỹ thuật cận lâm sàng bao gồm:
Chụp X – quang ngực
Xét nghiệm LF-LAM nước tiểu
Xét nghiệm Xpert MTB/RIF, Xpert Ultra hoặc các xét nghiệm SHPT khác.
Quy trình phát hiện tích cực bệnh lao ở người nhiễm HIV được thực hiện tùy thuộc vào việc phân loại các nhóm người nhiễm HIV, cụ thể như sau:
Người lớn và v.ị thàn.h niê.n điều trị ngoại trú chưa điều trị ARV, điều trị lại hoặc thất bại điều trị ARV.
Người lớn và v.ị thàn.h niê.n đang điều trị ARV ngoại trú
Tr.ẻ e.m điều trị ngoại trú.
Người lớn, v.ị thàn.h niê.n và tr.ẻ e.m điều trị nội trú.
Phát hiện tích cực bệnh lao ở người nhiễm HIV điều trị ngoại trú.
Phát hiện và điều trị sớm bệnh lao ở người HIV sẽ giúp điều trị đạt kết quả tốt hơn…
- Người lớn và v.ị thàn.h niê.n chưa điều trị ARV, điều trị lại hoặc thất bại điều trị: Người nhiễm HIV chưa điều trị thuố.c ARV, điều trị lại hoặc thất bại điều trị ARV có nguy cơ cao mắc lao mới hoặc lao tái phát do hệ miễn dịch bị suy giảm, có nguy cơ t.ử von.g cao. Vì vậy, cần áp dụng chiến lược phát hiện lao tích cực có độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Quy trình thực hiện:
Sàng lọc lao tại thời điểm đán.h giá bắt đầu điều trị hoặc điều trị lại thuố.c ARV hoặc thất bại điều trị.
Chỉ định xét nghiệm CRP hoặc chụp X-quang ngực đối với người bệnh có sàng lọc lao âm tính.
Chuyển mẫu bệnh phẩm hoặc người bệnh đến cơ sở điều trị lao để chẩn đoán lao bằng xét nghiệm sinh học phân tử (Xpert MTB/RIF, Xpert Ultra) hoặc các xét nghiệm chẩn đoán lao khác đối với các trường hợp sàng lọc lao dương tính hoặc xét nghiệm CRP dương tính hoặc khi X-quang ngực có hình ảnh bất thường. Hội chẩn với các bác sĩ chuyên khoa lao, chẩn đoán phân biệt và điều trị các bệnh nhiễ.m trùn.g cơ hội khác (nếu có)…
Cách lựa chọn thực phẩm cho người nhiễm HIV
Dinh dưỡng cho người nhiễm HIV/AIDS có những đặc thù riêng, nhằm giúp người bệnh duy trì và nâng cao sức khỏe, giảm thiểu các triệu chứng của bệnh, cũng như phòng ngừa các biến chứng.
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) là một bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng đặc trưng bởi tình trạng suy giảm miễn dịch và các biến chứng khác làm tăng tỷ lệ t.ử von.g. Sự lây truyền HIV gây ra thách thức lớn trên thế giới và đặt ra một nhu cầu cấp bách cho các nước trong việc thực hiện các chương trình dự phòng, điều trị và chăm sóc cho người nhiễm HIV/AIDS.
Hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra được thuố.c điều trị đặc hiệu cho căn bệnh này. Các thuố.c đang sử dụng cho người người nhiễm HIV chỉ nhằm kiểm soát sự nhân lên của HIV.
Người nhiễm HIV cần có chế độ dinh dưỡng tương đương với người lao động nặng.
Mối liên quan giữa HIV và suy dinh dưỡng
Người nhiễm HIV tăng nguy cơ suy dinh dưỡng vì nhiễ.m trùn.g làm tăng nhu cầu và giảm hấp thu các chất dinh dưỡng. Ngược lại, thiếu dinh dưỡng làm tăng sự nhạy cảm với nhiễ.m trùn.g cơ hội và tăng mức độ tiến triển sang AIDS.
Các bệnh nhiễ.m trùn.g liên quan (bệnh lao, tiêu chảy...) thường dẫn đến chán ăn, sụt cân và suy dinh dưỡng ở người nhiễm HIV/AIDS.
Khi bị nhiễm HIV, hệ thống miễn dịch sẽ hoạt động mạnh hơn để chống lại nhiễ.m trùn.g. Điều này làm tăng nhu cầu năng lượng và chất dinh dưỡng. Vì vậy, người nhiễm HIV cần phải ăn nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu năng lượng và các vi chất dinh dưỡng này. Nhu cầu như vậy sẽ tăng cao hơn nữa khi các triệu chứng của HIV/AIDS phát triển.
Người nhiễm HIV nên ưu tiên sử dụng thực phẩm nguồn protein có giá trị sinh học cao như thịt, cá, trứng, sữa...
Nhu cầu dinh dưỡng ở người nhiễm HIV/AIDS
Tổ chức Y tế thế giới đã khuyến cáo, tăng cường dinh dưỡng cho người nhiễm HIV sẽ làm tăng cường khả năng miễn dịch cho hệ thống miễn dịch, làm chậm quá trình chuyển sang giai đoạn AIDS, giúp cho người nhiễm HIV sống khỏe mạnh hơn.
Nhu cầu năng lượng của người nhiễm HIV tăng từ 10% đến 30% so với người lao động bình thường, do vậy chế độ ăn của người nhiễm HIV hàng ngày phải đảm bảo năng lượng tương đương với người lao động nặng.
Chế độ ăn cho người nhiễm HIV là chế độ ăn giàu năng lượng, giàu protein, giàu acid béo omega - 3, giàu vitamin và khoáng chất.
Người nhiễm HIV cần ăn nhiều thức ăn hơn, ăn nhiều khẩu phần hơn và/hoặc ăn nhiều bữa hơn, sử dụng đa dạng thực phẩm để cung cấp đầy đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng.
Một số gợi ý khi lựa chọn thực phẩm ở người nhiễm HIV
Người nhiễm HIV nên:
- Ưu tiên lựa chọn thực phẩm nguồn protein có giá trị sinh học cao: Thịt, cá, trứng, sữa...
- Nên lựa chọn thực phẩm giàu acid béo omega - 3 như: Cá (đặc biệt cá hồi), dầu cá...
- Tăng cường ăn các loại rau quả có nhiều vitamin C như các loại rau lá, quả chín.
- Tăng đậm độ năng lượng trong bữa ăn bằng cách sử dụng các thực phẩm giàu năng lượng như chất béo. Tăng dần hàm lượng chất béo trong thực phẩm bằng cách sử dụng nhiều chất béo và dầu hơn, cũng như ăn các loại thực phẩm béo - hạt có dầu như đậu phộng, đậu nành và vừng, bơ và thịt mỡ.
Người nhiễm HIV tránh ăn trứng sống.
Nếu gặp vấn đề với lượng chất béo cao (đặc biệt là tiêu chảy), hãy giảm lượng chất béo cho đến khi các triệu chứng biến mất và sau đó tăng dần đến mức cơ thể có thể dung nạp.
Ngoài ra, HIV tấ.n côn.g và phá hủy hệ thống miễn dịch, khiến cơ thể khó chống lại các bệnh nhiễ.m trùn.g hơn, trong đó có nhiễ.m trùn.g đường tiêu hóa (bệnh tiêu chảy). Vì vậy, tình trạng nhiễ.m trùn.g ở người nhiễm HIV có khả năng nghiêm trọng hơn và kéo dài hơn so với những người có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh.
Chú ý đến vệ sinh an toàn thực phẩm
Để tránh các vấn đề liên quan đến dinh dưỡng và nhiễ.m trùn.g đường tiêu hóa, người nhiễm HIV cũng phải chú ý đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Không nên ăn hoặc uống các loại thực phẩm không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (rau sống, trứng sống và hải sản sống hoặc chưa nấu chín, sữa hoặc các sản phẩm từ sữa chưa tiệt trùng...).
Cần rửa tay, dụng cụ nấu ăn và mặt bàn bếp thường xuyên khi chế biến thực phẩm. Tách riêng thực phẩm để ngăn ngừa vi khuẩn lây lan từ thực phẩm này sang thực phẩm khác.
Cần bảo quản làm lạnh hoặc đông lạnh thịt, thịt gia cầm, trứng, hải sản hoặc các thực phẩm khác có khả năng bị hỏng sau khi nấu hoặc mua nếu chưa sử dụng ngay.
Gánh nặng kép khi mắc HIV đồng nhiễm lao Đồng nhiễm lao/HIV làm tăng nguy cơ t.ử von.g ở những người nhiễm HIV. Người nhiễm HIV có hệ miễn dịch bị tổn thương, suy yếu làm tăng nguy cơ mắc nhiễ.m trùn.g cơ hội như lao... Biện pháp phát hiện bệnh nhân HIV đồng nhiễm lao Do bệnh lao ở người nhiễm HIV diễn tiến rất nhanh, tốt nhất là tất cả...