“Giải phóng” nông sản: Bộ NNPTNT sẽ mở hàng loạt thị trường mới
“ Ngành nông nghiệp cần giải quyết 2 nút thắt là tổ chức sản xuất theo quy mô lớn tập trung và mở rộng thị trường xuất khẩu” – Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường (ảnh) cho biết khi trả lời phòng vấn của NTNN/Dân Việt ngày 30.6.
Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Trong năm 2017, ngành nông nghiệp phải đối mặt với 2 thách thức lớn nhất. Thứ nhất là tiếp tục phải đối mặt với tình hình biến đổi khí hậu tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp; thứ hai là thị trường ngày càng khốc liệt. Tuy nhiên, qua quá trình tổ chức thực hiện với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp tích cực của các cấp, các ngành và sự cố gắng, nỗ lực của bà con nông dân trong việc triển khai quyết liệt cơ cấu lại nông nghiệp trên tất cả các lĩnh vực nên những thách thức đã dần được tháo gỡ.
Trong tình hình đó, Bộ trưởng có thể cho biết cụ thể ngành nông nghiệp đã đạt được những kết quả nổi bật gì?
- 6 tháng đầu năm, ngành đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Về tốc độ tăng trưởng, Chính phủ giao chỉ tiêu 3,05%/năm thì qua 6 tháng đã đạt 2,65%. Về mục tiêu xuất khẩu (XK), qua 6 tháng kim ngạch XK đã đạt 17,1 tỷ USD, trong đó toàn bộ các ngành hàng lớn đều đảm bảo chỉ tiêu đề ra. Ngoài ra, về số xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới, theo chỉ tiêu Chính phủ đề ra chúng ta phải đạt 30% số xã thì đến thời điểm này cả nước đã có 30,76% số xã đạt chuẩn.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, công tác chế biến sẽ được đẩy mạnh trong thời gian tới. (ảnh: Chế biến thủy sản xuất khẩu tại Công ty CP XNK thủy sản Cần Thơ (TP Cần Thơ). Ảnh: Q.T
Video đang HOT
Trong 6 tháng còn lại của năm 2017, Bộ NNPTNT có những giải pháp gì nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng toàn ngành 3,05%, thưa Bộ trưởng?
- Từ những kết quả đạt được của 6 tháng đầu năm, trên cơ sở đ.ánh giá những khó khăn và thuận lợi đối với lĩnh vực NNPTNT cho thấy những nhiệm vụ còn lại từ nay đến cuối năm là rất lớn, vì vậy toàn ngành phải tập trung cao nhất, nỗ lực thực hiện đạt mục tiêu đã đề ra.
Cho dù chúng ta đã đạt được những kết quả khả quan trong nửa đầu năm, nhưng để đạt con số tăng trưởng 3,05% GDP của toàn ngành trong cả năm, đòi hòi sự chỉ đạo quyết liệt, trong đó phải gỡ được 2 nút thắt. Một là phải tổ chức sản xuất theo quy mô lớn, tập trung, thứ hai là khâu mở rộng thị trường. Ngành cũng nhận thức rất rõ về vấn đề này, hiện nay trong nhóm giải pháp từ nay đến cuối năm, ngành đang phối hợp với Trung ương, địa phương, các tổ chức hiệp hội ngành hàng để giải quyết các nút thắt.
Cụ thể, Bộ NNPTNT sẽ “gỡ” như thế nào, thưa Bộ trưởng?
- Công tác chế biến sẽ được đẩy mạnh trong thời gian tới, Bộ đã và đang tập trung phối hợp cùng Bộ KHĐT sớm hoàn thiện, chỉnh sửa Nghị định 210, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, làm hạt nhân liên kết sản xuất với bà con nông dân và đẩy mạnh chế biến. Bên cạnh đó, Bộ NNPTNT cũng đang phối hợp các hiệp hội địa phương để tập trung phát triển thị trường trong nước và XK, nhằm không chỉ đạt mục tiêu 33 tỷ USD XK nông sản mà quan trọng hơn là chấm dứt được tình trạng được mùa rớt giá, tăng giá trị và thu nhập cho bà con nông dân.
Công tác phân tích thông tin, dự báo thị trường, đặc biệt là những thị trường trọng điểm (Mỹ, Nhật Bản, EU, châu Âu, Trung Quốc…) sẽ được chú trọng nhằm kịp thời cảnh báo và tập trung tháo gỡ các rào cản, vấn đề phát sinh có thể gặp khi XK nông sản. Tiếp tục đàm phán để có các thỏa thuận song phương với các nước tạo thuận lợi cho xuất khẩu nông lâm thủy sản như thỏa thuận liên quan đến NK tôm chưa nấu chín vào Úc, XK trứng gia cầm vào Myanmar; thịt lợn, sữa và sản phẩm sữa, cá rô đồng, nghêu… vào Trung Quốc, rau quả sang Đài Loan…
Bên cạnh đó, Bộ cũng đẩy mạnh thực hiện “Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030″, hoàn thiện “Chương trình phát triển thương hiệu nông sản chủ lực Việt Nam đến năm 2020″ đối với một số sản phẩm chè, cà phê, xoài, thanh long, cá tra… gắn với chỉ dẫn địa lý. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại trong nước nhằm quảng bá sản phẩm tiêu biểu, sản phẩm sạch, an toàn, phát triển các chuỗi cung ứng thực phẩm, nông, thủy sản an toàn tại thị trường trong nước.
“Chúng ta không chỉ nhắm đến thị trường Trung Quốc mà cả các thị trường khác với các sản phẩm thịt lợn sữa, thịt lợn mảnh, riêng thịt lợn nhỡ chúng ta xuất khẩu nguyên con. Ngành chăn nuôi cũng đang chuẩn bị cơ sở vật chất cũng như phương tiện để tiến tới XK thịt lợn mảnh, nhằm giúp ngành chăn nuôi sớm phục hồi và quan trọng hơn là tạo đà để phát triển bền vững”. Bộ trưởng Nguyễn XuânCường
Hiện bà con nông dân rất trông đợi vào thị trường XK thịt, Bộ trưởng có thể chia sẻ thêm về vấn đề này?
- XK thịt là bài toán khó không phải trong mấy tháng mà có thể giải quyết được, tuy nhiên hiện nay ngành đang nỗ lực. Ngày 1.7, Bộ NNPTNT tổ chức hội nghị với các nhà XK cũng như nhà phân phối, doanh nghiệp lớn triển khai tổ chức sản xuất chuỗi với bà con nông dân để chúng ta sớm có lô hàng XK thịt gà đầu tiên đi các thị trường lớn, trong đó có thị trường Nhật Bản.
Tiếp sau hội nghị này, chúng tôi sẽ tổ chức một hội nghị ở phía Bắc về XK thịt lợn. Chúng ta không chỉ nhắm đến thị trường Trung Quốc mà cả các thị trường khác với các sản phẩm thịt lợn sữa, thịt lợn mảnh, riêng thịt lợn nhỡ chúng ta XK nguyên con. Hiện nay ngành chăn nuôi cũng đang chuẩn bị tích cực cơ sở vật chất cũng như phương tiện để tiến tới XK thịt lợn mảnh, nhằm giúp ngành chăn nuôi sớm phục hồi và quan trọng hơn là tạo đà để ngành chăn nuôi phát triển bền vững.
Xin cảm ơn Bộ trưởng!
Theo danviet
Nông sản “tăng t.uổi thọ” nhờ công nghệ bảo quản mới
Kéo dài thời gian bảo quản nông sản nhờ công nghệ màng gói khí quyển biến đổi đã giúp nông sản Việt tự tin xuất khẩu đi các thị trường nước ngoài.
Vải thiều Lục Ngạn là một trong những loại nông sản thế mạnh của tỉnh Bắc Giang, mỗi năm đạt khoảng 140.000 - 160.000 tấn mang lại doanh thu hàng tỷ đồng. Nhưng có đến 60% sản lượng tiêu thụ thị trường nội địa, 40% sản lượng được xuất khẩu (chủ yếu qua Trung Quốc). Đưa quả vải nói riêng và nông sản Việt đi xa, đến với những thị trường khó tính phải có công nghệ bảo quản đảm bảo chất lượng nông sản sau thu hoạch.
Công nghệ túi MAP được Viện Hóa học phát triển có thể kéo dài thời gian bảo quản nông sản. Ảnh: Hồng Nhung
Viện Hóa học (VAST) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã chế tạo ra "Công nghệ bảo quản và nâng cao chất lượng nông sản bằng màng bao gói khí quyển biến đổi MAP", công nghệ này được hoàn thành nghiên cứu vào tháng 8.2016.
TS Trịnh Đức Công - Viện Hóa học cho biết, nguyên lý của túi MAP là bọc sản phẩm trong một lớp màng có độ thẩm thấu khí chọn lọc - hút CO2 và đẩy oxy, hạn chế quá trình hô hấp của rau quả, ngăn trái cây chín nhanh và bảo quản được lâu hơn. Màng bao gói được chế tạp từ các loại nhựa nhiệt dẻo và được sử dụng ở dạng nguyên sinh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Bước đầu, VAST đã xây dựng mô hình bảo quản 5 tấn vải thiều Lục Ngạn bằng túi MAP. Vải vừa thu hoạch được ngâm 7 phút trong nước 47 độ C để giảm vi sinh vật, sau đó ngâm 6 phút trong dung dịch axit oxalic pH=3 để ổn định màu vỏ rồi cho vào túi MAP buộc chặt, bảo quản ở nhiệt độ 4 - 5 độ C, độ ẩm 85 - 90%. Vải sau khi cho ra kho chỉ cần giữ ở nhiệt độ 16 - 18 độ C. Kết quả cho thấy, trong 30 ngày, màu sắc, hương vị và chất lượng quả vải đạt 98% như ban đầu.
Với giá thành rẻ (1.000 - 1.500 đồng/túi) và dễ sử dụng công nghệ MAP được kỳ vọng sẽ giúp người nông dân thoát khỏi cảnh bị chèn ép giá khi vải chín rộ, hay cám cảnh "được mùa rớt giá" như: Dưa hấu, hành tím, thanh long. Đồng thời tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường khó tính.
Ngoài dự án về MAP, hiện VAST đang xây dựng mô hình trồng nghệ theo hướng GACP, phát triển vùng nguyên liệu cho sản xuất để chiết xuất curcumin từ củ nghệ làm thực phẩm chức năng và một số sản phẩm có giá trị cao, năng suất giống nghệ trồng trên chân đất ruộng đạt 40,5 tấn/ha, trên đất vườn đạt 23 tấn/ha, trên đất đồi đạt 20 tấn/ha và doanh thu bình quân từ 160 -320 triệu đồng/ha/năm.
Được biết, giai đoạn 2014 - 2017, Bộ KHCN đã triển khai 5 dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho tỉnh Bắc Giang với tổng kinh phí Trung ương hỗ trợ là 15,6 tỷ đồng. Ví dụ như: "Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng vườn giống cam sạch bệnh"; "Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất giống và bảo quản khoai tây sạch bệnh" có năng suất trung bình đạt 17-18 tấn/ha và diện tích trồng khoai tây mở rộng từ 2.500ha lên 4.000ha.
Theo Danviet
Nông dân gặp khó, có cán bộ Hội Trước những khó khăn của người chăn nuôi lợn về tình trạng lợn ế và giá bán tại chuồng giảm mạnh, Hội Nông dân (ND) các tỉnh, thành phố đã lập tức vào cuộc, nỗ lực đưa ra những phương án hỗ trợ người chăn nuôi, đặc biệt là tổ chức các điểm bán thịt lợn sạch... "Cầu nối" nông dân với người...