Giải nhiệt bằng trà bát bảo lường xà
Chỉ với 8 vị thuốc đơn giản, có sẵn, dễ làm sẽ chế biến được một loại trà không chỉ giúp giải khát, giải nhiệt mà còn có tác dụng bồi bổ, thông tiểu, tiêu độc. Loại trà này còn có thể dùng làm nước uống quanh năm, đặc biệt thích hợp với những ngày hè nóng bức, cơ thể mất nhiều mồ hôi và muối khoáng, lao động chóng mệt mỏi.
“ Bát bảo” là 8 vị thuốc quý, “lường” là đường, còn ” xà” là tiếng trà đọc chệch đi. Thành phần của trà bát bảo gồm lá tre, rễ cỏ tranh, hoa hoặc cành lá kim ngân, rễ ngưu tất, thục địa, cam thảo bắc, ý dĩ và mía, liều lượng mỗi thứ có thể gia giảm tùy theo từng nhà hàng. Ta có thể chia 8 vị thuốc trong trà bát bảo thành hai nhóm.
Nhóm các vị thuốc mát gồm có lá tre, rễ cỏ tranh, kim ngân, ngưu tất. Theo Đông y, lá tre có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, giảm sốt; Rễ cỏ tranh có tác dụng thông tiểu, cầm máu, làm mát máu; Kim ngân là vị thuốc thanh nhiệt, giải độc rất thông dụng, còn ngưu tất có tác dụng tán ứ, cường gân, tráng cốt.
Nhóm các vị thuốc bổ gồm thục địa, ý dĩ, cam thảo và mía. Thục địa có tác dụng dưỡng huyết, bổ thận, làm đen tóc; Ý dĩ có tác dụng kiện tỳ, bổ phế, thanh nhiệt; Cam thảo giải độc, nhuận phế, điều hòa các vị thuốc khác; Mía có giá trị giải khát, mát phổi, lợi đờm, thông tiểu, điều hòa tỳ vị, chống nôn.
Các vị thuốc trong trà bát bảo đều là những vị thuốc dân gian, không có độc tính, rất dễ kiếm, có thể thu hái ngay trong vườn nhà, trên đường làng, ngõ xóm hoặc mua ở các cửa hàng bán thuốc Đông dược. Trường hợp ở địa phương không có sẵn những vị trên có thể thay thế bằng những vị thuốc khác có tác dụng tương tự. Thí dụ, người ta có thể thay lá tre bằng rau má, nhân trần; Thay rễ cỏ tranh bằng râu ngô, lá mã đề; Thay ngưu tất bằng thổ phục linh, tỳ giải; Thay kim ngân bằng bồ công anh, sài đất…
Cách nấu trà bát bảo rất đơn giản. Chúng ta có thể tự pha chế trà bát bảo dùng tại gia đình theo công thức sau: Thu hái hoặc mua 8 vị thuốc trên ngay tại các cửa hàng bán thuốc Nam ở địa phương. Lấy lá tre để tươi 20g, rễ cỏ tranh 5g, hoa hoặc cành lá kim ngân 5g, rễ ngưu tất 5g, thục địa 5g, cam thảo 5g, ý dĩ 5g, mía 50g. Cho các dược liệu trên (trừ mía chẻ thành thanh nhỏ) vào nồi hoặc ấm nhôm cùng với một lít nước. Đun cho đến khi sôi rồi giữ lửa nóng âm ỉ trong 15 – 20 phút là được.
Dùng trà này thay nước uống hằng ngày. Khi dùng chắt lấy nước uống lúc còn nóng hay để nguội đều tốt cả tùy theo sở thích từng người. Chú ý, dùng đến đâu pha chế đến đó, không dùng nước để qua ngày.
Theo BĐVN
Video đang HOT
Thuốc từ vỏ các loài nhuyễn thể
Những động vật thuộc lớp nhuyễn thể (thân mềm) sống ở biển như bào ngư, ngao, sò hoặc ở sông hồ như hến, trai, ốc thường cho thịt là những thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và vỏ là những vị thuốc hay trong kho tàng y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian.
Vỏ bào ngư, tên thuốc là thạch quyết minh được lấy từ con ốc khổng hay ốc chín lỗ. Dược liệu có vị mặn, tính bình, không độc, có tác dụng bổ gan thận, thanh nhiệt làm sáng mắt, được dùng để chỉ trị chóng mặt, hoa mắt, thong manh, mắt mờ có màng mộng, thị lực kém. Liều dùng hàng ngày là 4-8g dưới dạng thuốc bột hoặc 15-30g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trong những trường hợp sau:
Chữa quáng gà: Vỏ bào ngư, sơn thù, sơn dược, mỗi thứ 16g, cúc hoa, bạch tật lê, kỷ tử, đơn bì, bạch thược, phục linh, trạch tả, thục địa, mỗi thứ 12g. Tất cả phơi khô tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với mật làm thành viên. Mỗi ngày uống 20g, chia làm 2 lần.
Chữa đau mắt, sợ chói: Vỏ bào ngư, cúc hoa vàng và cam thảo (lượng bằng nhau) phơi khô, tán bột, ngày dùng 4g chiêu với nước ấm.
Vị thuốc thạch quyết minh được lấy từ vỏ bào ngư.
Vỏ hàu
,tên thuốc là mẫu lệ được lấy từ con hàu hay hà và được chế biến như sau: Cho vỏ vào nồi cùng với cát, trát kín, nung khoảng 12 giờ đến khi vỏ có màu xanh nhạt và bóp vụn ra là được. Có thể nung khô hoặc tẩm giấm rồi tán thành bột mịn. Dược liệu có vị mặn, chát, tính hơi lạnh, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, hóa đờm, giải độc, lợi tiểu, trừ nóng khát, hư tổn.
Chữa mộng tinh, di tinh: Vỏ hàu 50g, lộc giác sương 50g. Trộn đều, tán nhỏ, uống mỗi ngày 8-16g với nước sắc dây đỏ hồng 30g.
Chữa khí hư: Vỏ hàu 40g, phèn phi 40g, tẩm đồng tiện (nước tiểu trẻ em) phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn, mỗi lần uống 4g.
Chữa đái dắt, đái són: Bột vỏ hàu 40g nhồi vào bong bóng lợn, ăn trong ngày.
Chữa đau dạ dày, ợ chua: Bột vỏ hàu 8g, bột cam thảo 8g trộn đều, uống với nước ấm, dùng nhiều ngày.
Chữa mồ hôi trộm, chứng nổi hạch: Mỗi ngày uống 8g bột vỏ hàu trộn với nước ấm.
Dùng ngoài, vỏ hàu chữa mụn nhọt, lở loét dưới dạng bột rắc hoặc vỏ hàu nung đỏ, tán nhỏ, trộn với đào nhân giã nát (lượng bằng nhau) thêm nước cho nhão, đắp chữa sưng đau ngọc hành ở trẻ em (Nam dược thần hiệu).
Vỏ ngao, tên thuốc là văn cáp hay cáp xác, được lấy từ con ngao mật và chế biến như sau: Cho vỏ vào nước, nấu trong khoảng 5-6 giờ rồi phơi khô. Khi dùng để nguyên, tẩm giấm hoặc đồng tiện, rồi sao vàng, tán thành bột mịn.
Dược liệu có vị mặn, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp hóa đàm. Thực tế, vỏ ngao chữa phiến nhiệt, đau họng, ho tức, ho đờm, băng lậu, tràng nhạc, trĩ. Liều dùng hàng ngày: 12-20g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột để uống. Bột vỏ ngao 15g mỗi lần uống với rượu hâm nóng còn chữa được chứng đau bụng ở phụ nữ sau đẻ.
Vỏ sò,được lấy từ sò huyết, tên thuốc là ngõ lăng xác, đem rửa sạch, đập thành những mảnh vụn, cho vào nồi trát kín, nung đến khi đỏ hồng. Lấy ra, để nguội, tán nhỏ, rây bột mịn hoặc nhúng ngay vỏ đang hồng vào dung dịch giấm rồi mới tán bột. Dược liệu có vị ngọt, mặn, tính hơi lạnh, có tác dụng tiêu tích, hóa đàm, chữa tụ máu bầm tím, tê bại, đại tiện ra máu mủ, đau dạ dày ợ chua, cam răng, ngày dùng 12-20g với nước ấm. Có thể làm viên uống.
Vỏ hến, tên thuốc là nghiễn xác, có vị mặn, tính ấm, không độc, có tác dụng cố tinh, làm se, long đờm, chống nôn. Dùng riêng, chữa nôn mửa ợ chua, đau vùng thượng vị, hen suyễn, sang lở, thấp khớp. Liều dùng hàng ngày: 4-8g, có khi đến 12g dược liệu đốt thành tro, tán bột, uống với nước gừng (Nam dược thần hiệu)
Dùng phối hợp chữa quáng gà: Vỏ hến 40g, rang; cỏ dùi trống 40g, cúc hoa vàng 20g; thảo quyết minh 20g, kỷ tử 16g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 12g đối với người lớn, 4-5g cho trẻ em. Chữa di tinh, đái đục: Vỏ hến nung và hoàng bá sao, lượng bằng nhau, tán nhỏ rây bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê (Hải Thượng Lãn Ông)
Vỏ trai cho vị thuốc bạng phấn.
Vỏ trai
, chủ yếu là trai điệp, tên thuốc là bạng xác. Khi dùng nướng trên lửa to hoặc than hồng cho vỏ đỏ lên, để nguội, tán thành bột mịn. Bột này có tên gọi là bạng phấn, có vị mặn, tính hơi hàn, không độc có tác dụng khái thông, tiêu đàm, tán ứ, chữa bạch đới, thủy thũng, phiên vị (ăn vào nôn ra) ho đờm đặc, đau mắt. Liều dùng hàng ngày: 6-10g uống với ít rượu.
Vỏ ốc (ốc nhồi) tên thuốc là điền hoa xác, có vị mặn, ngọt, tính bình không độc, có tác dụng chống lở loét, giải tâm phiền, chữa lở miệng, rộp lưỡi, loét lợi và niêm mạc má. Lấy vỏ ốc nhồi 2 cái rửa sạch, sấy khô, sao vàng, tán bột mịn, cỏ nhọ nồi 50g, phơi khô, tán bột mịn. Trộn đều hai bột, xát vào răng lợi nhiều lần trong ngày. Khoảng 2-3 ngày là khỏi.
Để phối hợp điều trị cơn đau tim đột ngột, lấy vỏ ốc nhồi đốt với gỗ thông thành than, tán bột, rồi uống với nước sắc gỗ trầm hương, mỗi thứ 8g dùng 3-5 lần.
Theo SKĐS
Vị thuốc từ trứng kiến gai đen Khi gặp stress, người ta thường tìm đến các loại thuốc giảm đau, thuốc an thần và đặc biệt là thuốc ngủ với nhiều tác dụng phụ, mà quên rằng dùng sản phẩm từ thiên nhiên để bồi bổ tốt hơn cho cơ thể của mình. Trứng kiến gai đen - vị thuốc đông y độc đáo Xa xưa con người đã biết...