Giải mật điệp viên người Việt trong quân đội Tưởng Giới Thạch
Ông Hồ Học Lãm có được toàn bộ bản kế hoạch tấn công khu Xô Viết của quân đội Tưởng và chuyển cho Hồng quân Trung Quốc.
Chỉ thị của đồng chí Lý Thụy
Khoảng năm 1928, lo sợ về sự lớn mạnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu quân đội Quốc dân đảng lập kế hoạch tấn công tổng lực vào các khu căn cứ của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Lúc bấy giờ trong Bộ Tổng Tham mưu của quân đội Tưởng có Trung tá Hồ Học Lãm là một người Việt Nam. Ông Hồ Học Lãm vốn là thanh niên Việt Nam yêu nước đã rời quê hương đi tìm đường cứu nước từ phong trào Đông Du. Ban đầu ông vượt biên sang Trung Quốc theo cụ Phan Bội Châu rồi từ Trung Quốc sang Nhật. Ở Nhật ông được gửi vào học trường quân sự ở Tokyo. Chính trong trường này mà ông quen biết Tưởng Giới Thạch.
Gia đình ông Hồ Học Lãm và những người bạn tại Vu Hồ, Trung Quốc năm 1937.
Do Nhật – Pháp bắt tay nhau, nhóm thanh niên Đông Du bị Nhật trục xuất. Ông Hồ Học Lãm cùng cụ Phan Bội Châu trở lại Trung Quốc và nhờ Tưởng Giới Thạch giới thiệu ông được vào học tiếp trong trường võ bị Bảo Định.
Khi Cách mạng Tân Hợi rồi sau đó chiến tranh Bắc phạt nổ ra, Tưởng Giới Thạch lúc này đã về nước và rủ Hồ Học Lãm về chiến đấu cùng ông ta. Trong một trận chiến, Tưởng Giới Thạch bị vây nhưng Hồ Học Lãm đã kịp thời mang quân đến cứu. Do vậy, Tưởng Giới Thạch rất tin tưởng và khi ông ta nắm trọn quyền lớn đã gọi Hồ Học Lãm về Bộ Tổng tham mưu làm việc.
Trong hồi ký “Hồi tưởng về cha tôi – Hồ Học Lãm” của bà Hồ Mộ La – con gái ông Hồ Học Lãm viết: “Khoảng đầu năm 1928, cha tôi nhận được lệnh điều động về công tác tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Lúc này Tưởng tự phong mình là Tổng tài, Ủy viên trưởng, vừa nắm quyền quân sự, vừa nắm quyền chính trị. Ông Hồ Học Lãm về công tác trong Cục bản đồ của Bộ Tổng tham mưu tại Nam Kinh”.
Mặc dù công tác trong quân đội Tưởng, ông Hồ Học Lãm lúc nào cũng hướng về Việt Nam với khát vọng cách mạng cứu dân cứu nước lúc nào cũng cháy bỏng. Chính vì lòng yêu nước sâu sắc, ông đã chăm chỉ làm việc cho Tưởng để có lương mà cưu mang các thanh niên Việt Nam yêu nước hoạt động tại Trung Quốc. Nhà ông trở thành nơi ở và nơi đi về của các nhà cách mạng như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên…
Có lúc ông đã tâm sự với những nhà cách mạng đó: Thân tôi tại Trung Quốc nhưng tim lúc nào cũng hướng về Việt Nam. Nguyên văn câu ông nói là “Thân tại Tàu doanh tâm tại Việt”.
Vào lúc đó, Bác Hồ với bí danh Lý Thụy cũng đang hoạt động trên một khu vực rộng lớn từ Nam Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Myanmar, Lào và giữ liên hệ chặt chẽ với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nhận thấy những hành động của Quốc dân đảng, Bác Hồ đã chỉ thị cho ông Lê Thiết Hùng, lúc đó mang tên Lê Tân Dân và đang sống trong nhà ông Hồ Học Lãm tìm cách lấy tin của quân đội Tưởng để báo cho Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Video đang HOT
Theo hồi ký “Tôi làm người học trò nhỏ của Bác Hồ”, ông Lê Thiết Hùng viết: “Tôi quyết định trao đổi với ông Hồ Học Lãm làm thế nào lấy được những kế hoạch tiến công vào các khu Xô viết của Quốc dân đảng, để giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiệm vụ đồng chí Lý Thụy giao cho tôi vẫn canh cánh bên lòng. Vì thế, một hôm đã khuya, lúc chỉ còn lại hai bác cháu, tôi tự thấy mạnh dạn, nêu ý kiến với ông. Ông nói, giọng trầm, đĩnh đạc: Thể xác hình hài của tôi lúc này là Hồ Học Lãm làm tại Bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng, còn linh hồn và trái tim tôi thì luôn luôn thuộc về cách mạng. Việc lấy các kế hoạch này, khó khăn lắm đấy, lộ ra thì mất đầu như chơi. Nhưng đã quyết tâm thì làm, nhất định được”.
Điệp viên giữa Bộ Tổng tham mưu của Tưởng Giới Thạch
Bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng tổ chức theo khuôn mẫu của quân đội Đức do các cố vấn Đức trực tiếp chỉ đạo với kỷ luật rất nghiêm ngặt. Sau giờ làm việc, mọi hồ sơ tài liệu đều được niêm phong gửi vào tủ sắt bảo mật. Cán bộ tuyệt đối không được đem theo một mẩu giấy nào về nhà. Người nào biết việc nấy, tuyệt đối không được nói nội dung công tác của mình đang làm cho người khác biết.
Trong bối cảnh đó, để thực hiện được công việc của đồng chí Lý Thụy giao, ông Hồ Học Lãm đã phải lao tâm khổ tứ suy nghĩ nhiều cách. Sau rất nhiều khó khăn và tốn kém, ông cũng moi được những tin tức liên quan từ các sĩ quan trong Bộ Tổng tham mưu. Cũng có khi ông phải trực tiếp xuống các Sư đoàn để nghiên cứu, xác định lại.
Trong mọi tình huống, ông không thể ghi chép mà chỉ nhớ nhập tâm những phần việc mình được giao và những phần việc của nhiều sĩ quan khác rồi về nhà đọc lại từng câu từng chữ cho Lê Tân Dân ghi lại. Sau đó hai người lại trao đổi để gạn lọc lấy những tin tức chính xác. Các tin tức tình báo chuyển cho Hồng quân Trung Quốc đã được thực hiện theo cách đó.
Hồi ký của Lê Thiết Hùng viết: “Từ mùa hè đến mùa thu năm 1930, Bộ chỉ huy tối cao Hồng quân vẫn thường nhận được những báo cáo mật từ cơ sở chuyển về: địch ra lệnh cấm chuyên chở thóc gạo xuôi theo sông Như Thủy và Cống Giang… Bọn thám báo đã đột nhập, liên lạc được với bọn A, B (chống cộng) ở Đông Côn, Phủ Diên, Hậu Bị, Đông Thiên…
Nhiều sĩ quan quê ở Phúc Kiến, Giang Tây đã được điều động về Bộ Tổng tham mưu… Các sư đoàn của tướng Lưu Hòa Dĩnh, Trương Huy Tân, Đàm Đào Nguyên được bổ sung trang bị, quân số, chuyển dịch về phía Giang Tây… Tất cả đều do ông Hồ Học Lãm và tôi chong đèn gần thâu đêm để làm ra những dòng tin ấy.
Bản đồ quân sự lúc này cũng hiếm, lại không được đem về nhà nên ông phải phỏng theo những bản đồ đường sá, hành chính, vẽ lại cho cụ thể. Đến lượt tôi chuyển giao cho cơ sở của Đảng bạn, cũng phải nhập tâm thuộc lòng như người chủ sự, hướng dẫn lại bằng miệng cho cơ sở nhận, nắm thật vững nội dung. Còn giấy tờ thì chỉ ghi rất vắn tắt, gạch đầu dòng từng đề mục. Cuối cùng toàn bộ bản kế hoạch tấn công khu Xô Viết trung ương của Đảng Cộng sản do Tưởng Giới Thạch phê chuẩn đã được ông Hồ Học Lãm và tôi lấy được, gửi tới tay Đảng bạn. Phạm vi của cuộc tiến công là vùng tứ giác La Lâm, Nghi Hoàng, Lê Xuyên, Thụy Kim, tọa độ X, Y… Binh lực tham gia từ 10 đến 15 sư đoàn, ước khoảng 30 vạn quân, chia làm nhiều đợt. Thời gian có thể bắt đầu từ những tháng đầu năm 1931″.
Theo Kiến Thức
Bốn người phụ nữ ảnh hưởng đặc biệt đến Mao Trạch Đông
Bốn người phụ nữ này đã có những ảnh hưởng rất quan trọng đến vị lãnh đạo nổi tiếng Trung Quốc Mao Trạch Đông.
Mẹ của Mao Trạch Đông, mọi người thường gọi là Văn Thất Muội. Bà là một người đàn bà chuyên cần lao động, lương thiện hiền thục, phẩm đức cao thượng.
Năm 1867, bà sinh ra trong một gia đình bần nông xã Đường Gia, huyện Tương Hương, cách xã Thiều Sơn (làng quê của Mao Trạch Đông) hơn hai chục dặm.
Năm 18 tuổi, bà Văn Thất Muội lấy chồng là ông Mao Thuận Sinh, một chàng trai nông dân nghèo khổ của xã Thiều Sơn và trở thành một người vợ hiền, dâu thảo.
Năm 1893, bà sinh Mao Trạch Đông, sau đó lại sinh ra Mao Trạch Dân, Mao Trạch Đàm và còn nhận nuôi dưỡng một người con gái nuôi tên là Mao Trạch Kiện.
Đối với mẹ, Mao Trạch Đông chan chứa tình cảm. Sau khi mẹ từ trần không lâu, Mao Trạch Đông đã viết thư cho các bạn học, trong thư có viết: "Trên đời có 3 loại người: Làm thiệt người lợi mình; làm lợi mình không thiệt người; có thể thiệt mình, làm lợi người. Mẹ mình thuộc về loại người thứ ba!".
Dương Khai Tuệ: Người yêu nhất đời của Mao Trạch Đông
Cuộc hôn nhân kết tóc xe tơ giữa Dương Khai Tuệ với Mao Trạch Đông là kết quả của tự do chọn lựa và tự do yêu đương của thanh niên trí thức, với sự ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng mới của phong trào Ngũ tứ (4/5/1917). Dương Khai Tuệ, tên hiệu là Hà, tên tự là Vân Cẩm, sinh ngày 6/11/1901, tại xã Bản Thương, huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.
Mao Trạch Đông và Dương Khai Tuệ.
Trung tuần tháng 10/1930, Dương Khai Tuệ bị bọn phản động Quốc dân đảng bắt giam trong nhà tù. Khi điều tra xét hỏi, viên sĩ quan quân đội Quốc dân đảng gợi ý: Nếu như Dương Khai Tuệ chỉ tuyên bố thoát ly quan hệ với Mao Trạch Đông, thì lập tức sẽ được trả lại tự do.
Nhưng, Dương Khai Tuệ nghiễm nhiên trả lời:
"Chết cũng không tiếc, chỉ mong cuộc cách mạng của Nhuận Chi (tên hiệu của Mao Trạch Đông) sớm thành công!".
Dương Khai Tuệ đã kiên trung bất khuất anh dũng hy sinh trước mũi súng của tập đoàn phản động Quốc dân đảng, một lòng nghĩ đến Mao Trạch Đông và sự nghiệp cách mạng.
Hạ Tử Trân: Bạn chiến đấu cách mạng, cùng chung hoạn nạn với Mao Trạch Đông
Hạ Tử Trân là chiến hữu của Mao Trạch Đông trong cuộc đấu tranh ở núi Tỉnh Cương và trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Khu Xô-viết Giang Tây, cũng là người bạn đời chung hoạn nạn trong thời kỳ Mao Trạch Đông nhiều lần bị bài xích đả kích.
Mao Trạch Đông và Hạ Tử Trân.
Hạ Tử Trân giỏi văn giỏi võ, vì cách mạng sẵn sàng hy sinh tính mạng bản thân mình. Có một lần, Mao Trạch Đông, Chu Đức và một số người đang khai hội, Hạ Tử Trân cũng có mặt. Lúc ấy, kẻ địch xông vào, Hạ Tử Trân anh dũng mưu trí, lập tức cưỡi một con ngựa không có yên, trên tay cầm hai khẩu súng, bắn về hai hướng đông tây, mỗi bên một phát. Mọi người nói cô có thể bắn súng hai tay chính là xuất phát từ cuộc chiến đấu bất ngờ ấy. Cô dẫn dụ thu hút quân địch, bọn địch theo tiếng súng mà truy đuổi cô. Di chuyển một vòng, đánh lạc hướng quân địch, rồi cô rút lui an toàn, bảo vệ được đồng chí đồng đội thoát hiểm.
Hạ Tử Trân giỏi văn giỏi võ, sẵn sàng hy sinh thân mình vì cách mạng. Trong lửa đạn chiến tranh, Mao Trạch Đông và Hạ Tử Trân cùng vào sống ra chết, sống chung 10 năm gian nan nhất của cách mạng Trung Quốc.
Giang Thanh: Gánh nặng chính trị của vĩ nhân một thời
Mao Trạch Đông và Giang Thanh có một cuộc hôn nhân gần bốn mươi năm, thời gian dài nhất, quan hệ cũng phức tạp nhất. Trong những năm tháng chiến tranh, quan hệ giữa hai người khá yên bình, hài hòa, song cũng có sóng gió.
Mao Trạch Đông và Giang Thanh.
Sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông có một sự quan tâm và kỳ vọng đối với Giang Thanh.
Từ sau khi Giang Thanh leo lên vũ đài chính trị, Mao Trạch Đông đối xử với Giang Thanh rất thất thường, bỗng dưng coi trọng, bỗng dưng lãnh đạm, bỗng dưng quan tâm, bỗng dưng phê bình.
Đến cuối đời, về cơ bản hai người có danh phận mà không còn thực tế.
Giang Thanh có thể hấp dẫn ánh mắt của Mao Trạch Đông, một mặt là do cô ta chủ động theo đuổi, mặt khác cũng bởi vì tại Diên An khi ấy, Giang Thanh đích xác khá xuất chúng. Mái tóc đen huyền, mắt to có thần, hát Kinh kịch rất hay, rất được hoan nghênh trong hoàn cảnh đời sống văn hóa khi ấy rất nghèo nàn.
Theo Kiến Thức
10 thiết bị do thám huyền thoại của CIA Tạp chí Fastcodesign đã tổng hợp 10 thiết bị do thám tinh vi nhất của Cơ quan an ninh quốc gia Mỹ (NSC) được sử dụng trong thời Thế chiến. Trên gương của hộp phấn có mật mã, chúng chỉ hiện lên nếu được nhìn ở góc thích hợp. Ảnh: Fastcodesign Máy ảnh tí hon Gián điệp thời Chiến Tranh Lạnh sử dụng...