Giải mã ‘Tây du ký’: Vì sao Ngộ Không suýt mù khi bị yêu chuột vàng thổi gió?
Từng được luyện trong lò bát quái, đôi mắt lửa ngươi vàng của Tôn Ngộ Không vẫn không chịu nổi trận gió Hoàng Phong lão quái thổi.
Hồi 20, 21 Tây du ký kể rằng, đường đi của ba thầy trò Đường Tăng, Ngộ Không, Bát Giới (lúc này Sa Tăng chưa gia nhập đoàn thỉnh kinh) bị chặn lại bởi yêu quái Hoàng Phong. Thấy thuộc hạ là hổ tiên phong vì bắt Đường Tăng mà bị Tôn Ngộ Không đánh chết, Hoàng Phong tức giận ra nghênh chiến. Đánh không lại hàng trăm con khỉ do lão Tôn biến hóa, hắn há miệng thổi ra trận gió mạnh khiến loạt Ngộ Không giả bay dạt, còn Ngộ Không thật nhắm chặt mắt chạy trối chết.
Yêu quái Hoàng Phong trong phim “Tây du ký” 1986.
Lão Tôn sợ hãi miêu tả về cơn gió khi gặp lại Bát Giới: “Ta cũng biết hô phong hoán võ, mà chưa từng gặp gió độc như vậy, đứng chẳng vững chân nên phải chạy” .
Trận gió khiến đôi mắt Tôn Ngộ Không cay xè, lệ chảy không ngớt nên không thể mở ra nổi, phải gấp rút tìm người chạy chữa. Nếu không có Linh Cát Bồ tát cứu, đại đồ đệ của Đường Tăng có nguy cơ bị mù. Vị Bồ tát này cũng thu phục yêu quái Hoàng Phong, hóa ra đó là con chuột vàng tu dưới chân núi Linh Sơn của Phật tổ, vì uống dầu lưu ly trước bàn Phật khiến đèn mờ đi, sợ tội nên trốn xuống làm yêu quái.
Chỉ là tinh chuột thôi, sao ngọn gió nó thổi ra lại đáng sợ đến vậy, thậm chí khiến đôi mắt lửa ngươi vàng của Tôn Ngộ Không, vốn vững vàng khi bị thiêu trong lò bát quái, cũng chỉ gặp một hơi gió là không chịu nổi?
Đôi mắt Tôn Ngộ Không vốn không sợ lửa trong lò bát quái của Thái Thượng Lão quân nhưng suýt bị mù vì trận gió của yêu Hoàng Phong.
Trong Tây du ký, nhân vật ông lão mà Tôn Ngộ Không gặp trên đường (thật ra là Hộ pháp Già Lam hóa thân) tiết lộ về loại gió này: “Hoàng Phong đại vương thổi gió độc. Không phải gió đông, tây, nam, bắc, không phải gió xuân, hạ, thu, đông. Ấy là tam muội thần phong, ở trong lỗ mũi, miệng và con mắt bay ra, thật là độc quá! “.
Theo ông lão, gió ấy:
Video đang HOT
“ã làm trời đất tối
Lại thêm quỷ thần kinh
Gặp núi non cũng sập
Nhằm người phải bỏ mình”.
Tóm lại, đã bị gió ấy thổi thì trừ thần tiên phật thánh ra, không ai sống nổi.
Về thông điệp Phật giáo ẩn sau câu chuyện này, Đại đức Thích Tỉnh Thiền giải thích trong bài viết trên Cổng thông tin điện tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam rằng, loại gió mà yêu quái Hoàng Phong thổi ra là “bát phong” – tám loại gió tượng trưng cho những trở ngại ngăn cản bước tiến của người tu hành trên hành trình tìm đến sự giác ngộ, giải thoát.
Tám loại gió đó gồm: Lợi (lợi ích cho bản thân), suy (sự suy hao, tổn hại, mất mát); hũy (bị sỉ nhục, khinh rẻ), dự (sự đề cao, tán dương danh dự hay địa vị), xưng (xưng tụng, khen ngợi), cơ (bị chỉ trích, bị tiết lộ những điều xấu), khổ (gặp điều bất hạnh, gây đau khổ thân và tâm), lạc (vui mừng).
“Có thể nói chúng ta đều bị vướng phải hoặc ít hoặc nhiều một vài trong 8 gió ấy. Ví như ta làm ăn được lợi một số tiền khá lớn hay trúng số chẳng hạn, lúc đó tâm có được bình lặng thản nhiên như mọi khi không, hay là bối rối, bất an vì tính toán sẽ làm gì với cái lợi đã có? Hoặc có một việc không ai làm nổi mà mình làm được, người ta tán dương khen ngợi thì ta có tự hào không hay là vẫn bình thản? Đó là nói những cái lợi, còn những điều thất bại, thất thoát hay bị hũy nhục, đau khổ thì chắc không làm sao tránh khỏi” , Đại đức Thích Tỉnh Thiền viết.
Gặp tám loại gió trên, người không có trí tuệ sẽ phải khổ lụy nhiều, ngay người có trí như Tôn Hành Giả cũng bị thổi suýt mù mắt, ấy là vì chưa biết được gốc gác của nó. Phải biết những cơn gió cản trở bước tiến tu hành ấy từ đâu tới thì mới có thể hóa giải, đó là lý do cần đến Linh Cát Bồ tát – tượng trưng cho thời trí, tức là cái trí sáng suốt ngay lúc gặp nghịch cảnh.
Trong Tây du ký , Linh Cát Bồ tát đọc thần chú định tâm để giúp Ngộ Không thu phục yêu quái Hoàng Phong, ẩn ý rằng phải định tâm và sáng suốt mới nhận ra những trở ngại là gì, từ đâu tới. Yêu quái này vốn đến từ chân núi Linh Sơn của Phật tổ, tức gió độc ấy khởi từ tâm chân thật, nó xuất hiện do tâm động mà ô nhiễm.
Vì sao yêu quái thổi loại gió đáng sợ đó lại được hình tượng hóa thành con chuột? Đại đức Thích Tỉnh Thiền lý giải, vì chuột là con vật hay lén lút sống trong bóng tối và rất sợ ánh sáng. ” Còn núi Linh Sơn là nơi Phật ở, chỉ cho tâm chân thật. Nói yêu tinh ở dưới chân núi để ám chỉ bát phong có là do tâm động. Khi tâm bất giác mê mờ hay lén lút trốn đi hướng ngoại, bị trần cảnh mê hoặc, rời bỏ cội nguồn lang thang khắp chốn, được tượng trưng bằng hình ảnh con chuột thành tinh. Nên trong kinh Pháp Cú nói: ‘Tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình rất xa, vô hình vô dạng, như ẩn náu hang sâu, điều phục được tâm thì giải thoát khỏi vòng ma trói buộc“.
Như vậy, loại gió độc mà yêu quái Hoàng Phong thổi ra chính là trở ngại xuất phát từ chính cái tâm của thầy trò Đường Tăng. Họ phải định tâm và trở nên sáng suốt để vượt qua nó mới có thể rút ngắn hành trình thỉnh kinh còn nhiều gian khổ ở phía trước.
Sự thật khác hẳn phim 'Tây du ký' của Đường Tăng trong lịch sử
Trái ngược với những điều được kể trong "Tây du ký", việc đi lấy kinh của Đường Tăng ngoài đời thực không hề được vua Đường ủng hộ, thậm chí còn cấm đoán.
Những người mê Tây du ký đều biết, nhân vật Đường Tăng (còn gọi là Đường Tam Tạng) được xây dựng từ một nhân vật có thật trong lịch sử, một vị cao tăng đời Đường ở Trung Quốc. Tuy nhiên, sự thật về cuộc đời lẫn hành trình thỉnh kinh của vị pháp sư lừng danh này đều rất khác với tiểu thuyết hay phim ảnh, thậm chí trái ngược.
Đường Tăng không mồ côi cha
Trong tác phẩm Tây du ký, Đường Tăng mồ côi cha ngay từ trong bụng mẹ, do cha ông bị ám sát, còn mẹ bị ép làm vợ kẻ sát nhân.
Tuy nhiên, sử sách ghi lại vị pháp sư này từ nhỏ đã được thân phụ dạy dỗ cẩn thận và sớm bộc lộ tư chất thông minh vượt trội.
Đường Tăng họ Trần, tên tục là Trần Huy, sinh năm 602 (có tài liệu nói là năm 600) ) tại Lạc Châu, huyện Câu Thị, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Gia đình có truyền thống làm quan lại, nhưng đến đời cha của ông là Trần Huệ thì không bước chân vào quan trường mà dốc tâm vào Nho học.
Không xuất gia từ hồi ẵm ngửa
Trong Tây du ký , vì hoàn cảnh chồng bị sát hại, bản thân phải nhẫn nhịn làm vợ kẻ thủ ác chờ ngày mối oan của gia đình được giải, mẹ Đường Tăng phải bảo vệ con bằng cách đặt đứa bé mới sinh lên cái giỏ thả trôi sông, hy vọng con mình được người tốt nuôi dưỡng. Cơ duyên đưa chiếc giỏ dạt vào một ngôi chùa, và đứa bé sống đời tu hành ngay từ tuổi ấu thơ.
Sự thật, pháp sư Đường Huyền Trang sống cùng gia đình, đến năm 13 tuổi mới xuất gia làm chú tiểu, 21 tuổi chính thức trở thành tỳ kheo. Ông nhanh chóng nổi tiếng là nhân tài trẻ tuổi trong giới Phật học.
Đi thỉnh kinh trái lệnh vua
Tây du ký kể rằng, Phật tổ Như Lai muốn truyền chân kinh sang phương Đông để độ cho chúng sinh nơi đó, nên lệnh cho Quan Âm Bồ tát tìm người đi lấy kinh. Người được chọn là pháp sư Huyền Trang ở Đại Đường. Vua Đường nhận người đi lấy kinh là em kết nghĩa, coi ông như một ân nhân của đất nước, màn tiễn đưa cực kỳ long trọng và xúc động.
Nhưng trên thực tế, sang đất Phật thỉnh kinh là nguyện vọng tha thiết của cá nhân Đường Tăng. Hồi đó ở Trung Quốc, kinh điển còn thiếu, các vị trưởng lão giảng giải khác nhau, mâu thuẫn và tranh cãi rất nhiều. Vì thế nhà sư trẻ pháp danh Huyền Trang muốn đi Thiên Trúc để tự mình tìm hiểu, tiếp cận với những kinh sách gần với nguyên bản nhất.
Hình ảnh Đường Tăng trong phim "Tây du ký" 1986.
Mặc dù hoàng đế nhà Đường ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, ông vẫn lên đường vào năm 629. Khi thành công trở về, pháp sư Huyền Trang mới được vua Đường ủng hộ trong việc tổ chức dịch thuật kinh sách. Cuốn Đại Đường Tây Vực ký - tác phẩm nổi tiếng của ông, nguồn tài liệu vô song về địa lý, xã hội và tập quán của vùng Trung Á và Ấn Độ thế kỉ VII, thứ bảy, được viết theo "đặt hàng" của vua Đường.
Chỉ mất 1 năm để đến Thiên Trúc
Tây du ký kể rằng Đường Tăng và các đồ đệ Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng phải mất 14 năm cho hành trình từ Đại Đường đến Thiên Trúc, trải qua 81 kiếp nạn.
Sự thật, pháp sư Huyền Trang chỉ mất hơn một năm để đến đất Phật. Tuy nhiên, phải đến năm 645, tức 16 năm sau khi rời Đại Đường, ông mới về đến cố hương. Nguyên nhân là khi tới Thiên Trúc, nhà sư trẻ nhận thấy sự khác biệt giữa Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc, nhiều nội dung, tư tưởng lớn của Phật giáo chưa từng được biết đến ở quê hương ông. Do đó, ông quyết định ở lại học tập, nghiên cứu. Ông đã học với những vị thầy danh tiếng nhất ở đây, tham gia các cuộc tranh luận với nhiều học giả và nổi tiếng về sự uyên bác cũng như việc luôn chiến thắng trong các cuộc tranh luận.
Trở về Trung Quốc, pháp sư Huyền Trang mang theo hơn 600 bộ kinh viết bằng tiếng Phạn và tổ chức dịch sang tiếng Hán, được đánh giá là một trong 4 dịch giả lớn nhất chuyên dịch kinh sách tiếng Phạn ra tiếng Hán. Ông cũng là người sáng lập Pháp Tướng tông, một tông phái của Phật giáo ở Trung Quốc.
Ngoài công lao "thỉnh kinh", sự uyên bác xuất chúng và danh tiếng của pháp sư Huyền Trang có được tại Ấn Độ khiến ông trở thành một trong những tu sĩ được tôn kính nhất vùng Đông Á ở thế hệ của mình. Đồ đệ của ông đến từ khắp Trung Quốc và cả Triều Tiên, Nhật Bản. Danh hiệu "Tam Tạng" là do giới tăng sĩ dành tôn xưng ông - nhân vật hiếm hoi tinh thông cả 3 tạng kinh điển của Phật giáo: Kinh, Luật, Luận.
Từ Hằng Nga đẹp nhất màn ảnh đến 'nữ cường nhân' sở hữu khối tài sản hàng trăm tỷ đồng, cả đời chỉ đóng 1 vai nhưng 30 năm khán giả vẫn nhớ Có đời tư khá kín tiếng song Hằng Nga đẹp nhất màn ảnh là nữ cường nhân sở hữu khối tài sản lên đến hơn 100 triệu NDT (khoảng hơn 347 tỷ đồng). Cả đời chỉ đóng một vai duy nhất nhưng khiến khán giả không thể quên Khâu Bội Ninh sinh năm 1958 tại Bắc Kinh, Trung Quốc trong một gia đình...