Giải mã các “nút thắt” trong quá trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ
Có ý kiến cho rằng, năm 1977, Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ để bình thường hóa quan hệ với Mỹ, nhưng khi chiến tranh mới kết thúc và trong bối cảnh phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế nên không dễ gì cho chúng ta quyết định một vấn đề lớn như vậy.
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Dân trí nhân dịp kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, nguyên Phó Thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã điểm lại một số nét chính trong quá trình đàm phán kéo dài suốt gần 2 thập kỷ, qua 5 đời tổng thống Mỹ.
Nguyên Phó Thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, Nguyễn Mạnh Cầm
Hơn một thập kỷ của những khó khăn
Vấn đề bình thường hóa được đặt ra vào năm 1976 khi ta gửi một thông điệp không chính thức cho Mỹ qua Liên Xô nêu vấn đề hai bên nên gặp nhau để thảo luận việc bình thường hóa quan hệ.
Lúc đó, phía Mỹ không trả lời vì đó là thông điệp không chính thức và tuy Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là G.Ford vẫn theo đuổi chính sách cấm vận và cản trở Việt Nam vào Liên Hợp quốc nhưng ông đã quyết định tạm ngừng cấm vận 6 tháng để tạo không khí cho đối thoại. Ngay ngày hôm sau, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ gửi thư cho Bộ trưởng Ngoại giao ta đề nghị hai bên gặp nhau để thảo luận. Trong thư trả lời, Bộ trưởng ta đồng ý cuộc gặp, đồng thời yêu cầu Mỹ thực hiện lời hứa góp 3,25 tỷ đô la Mỹ vào việc tái thiết Việt Nam.
Thời gian này có một số cuộc gặp song phương ở cấp thấp, chủ yếu tập trung trao đổi về việc giải quyết vấn đề tù binh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam (POM-MIA).
Năm 1976 là năm cuối của nhiệm kỳ Tổng thống Ford, người được cử làm tổng thống giữa chừng thay thế Nixon do phải từ chức sau vụ Watergate (nghe lén) chứ không qua bầu cử như thường lệ.
Ngay sau đó Jimmy Carter lên làm tổng thống vào tháng 1/1977 thì tháng 3/1977 đã cử một đoàn do Thượng nghị sĩ Woodcock dẫn đầu sang Việt Nam tìm hiểu tình hình và trao đổi ý kiến về việc bình thường hóa.
Nhưng trong thời gian này, Pol Pot tăng cường đánh chiếm các vùng biên giới của ta, giết hại nhân dân và phá hoại làng mạc. Trước tình hình đó, đồng thời do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Campuchia khẩn thiết yêu cầu ta sang giúp đánh Pol Pot nên từ cuối năm 1977 đầu năm 1978, ta đưa quân tình nguyện sang Campuchia.
Tháng 5/1977 bắt đầu cuộc đàm phán giữa hai đoàn chính thức cấp chính phủ hai nước. Phía ta do Thứ tưởng Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, phía Mỹ do Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Holbrook dẫn đầu. Khi hai bên bắt đầu đàm phán, Tổng thống Carter tuyên bố Mỹ không cản trở việc Việt Nam gia nhập Liên Hợp quốc.
Tuy Mỹ yêu cầu đàm phán không có điều kiện tiên quyết, nhưng khi bước vào đàm phán Mỹ vẫn đòi Việt Nam phải thống kê và giải quyết số người Mỹ mất tích trong chiến tranh và trao trả cho Mỹ. Phía ta cũng nêu yêu cầu Mỹ phải thực hiện lời hứa bằng văn bản góp phần vào việc tái thiết Việt Nam với số tiền 3,25 tỷ đô la Mỹ. Phía Mỹ từ chối thảo luận và nêu ý kiến nên để sau khi bình thường hóa sẽ thông qua buôn bán và cung cấp một số thiết bị cần thiết cho Việt Nam là sẽ góp một phần vào việc tái thiết.
Vấn đề này được ghi trong điều 21 của Hiệp định Paris, thực chất là ta đòi bồi thường chiến tranh nhưng để giữ thể diện cho Mỹ, ta thỏa thuận dùng từ “góp phần tái thiết”. Khi ký tắt hiệp định, Cố vấn Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Tổng thống Mỹ Kissinger đã thỏa thuận bằng văn bản số tiền 3,25 tỷ đô la mà Mỹ sẽ đóng góp vào tái thiết Việt Nam.
Video đang HOT
Cố vấn Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Tổng thống Mỹ Kissinger bắt tay sau khi ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 (Ảnh: AFP)
Do lập trường hai bên khác nhau nên cuộc đàm phán trên không đạt kết quả. Sang năm 1978, khi ta tiếp tục thúc đẩy cuộc đàm phán và đồng ý đàm phán không điều kiện, ngụ ý không nhắc lại việc thực hiện khoản 3,25 tỷ đô la; Mỹ trả lời họ vẫn giữ quan điểm bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nhưng lúc này để chậm lại một thời gian.
Thực ra lúc này, Mỹ chững lại việc đàm phán với ta do tập trung chuẩn bị thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Mặt khác, do trong vấn đề Campuchia, Trung Quốc ra sức giúp bè lũ Pol Pot; trong khi đó, đầu năm 1979 cũng diễn ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam, quan hệ Việt-Trung căng thẳng; trên quốc tế, mâu thuẫn Xô-Trung trở nên gay gắt nên Mỹ dừng việc thảo luận vấn đề bình thường hóa và nói lúc này không phải là thời điểm thích hợp.
Sau đó, Reagan lên làm Tổng thống và tuyên bố “chỉ sau khi Việt Nam khẳng định rút hết quân khỏi Campuchia, Mỹ mới bàn về vấn đề bình thường hóa quan hệ”. Do đó, một thời gian Reagan làm thổng thống và giai đoạn đầu nhiệm kỳ của Tổng thống George W.Bush, cuộc trao đổi giữa hai bên chững lại.
Vào những năm cuối của chính quyền Bush, tình hình khu vực có một số biến chuyển. Cuối năm 1979, quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia và cuộc đàm phán về Campuchia đi dần vào giải pháp. Vào khoảng quý 3 năm 1991, giải pháp về Campuchia được thỏa thuận.
Tháng 10/1991 sau khi kế nhiệm ông Nguyễn Cơ Thạch làm Bộ trưởng Ngoại giao, ông Nguyễn Mạnh Cầm sang Paris dự cuộc họp cuối cùng của Hội nghị Quốc tế về vấn đề Campuchia và ký hiệp định lập lại hòa bình ở Campuchia. Ông Cầm đã tranh thủ gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker. Trong cuộc gặp, phía ta nêu yêu cầu Mỹ bỏ cấm vận để tiến tới bình thường hóa quan hệ và đề nghị hai bên cử đoàn cấp chính phủ nối lại đàm phán. Baker đồng ý và cử đoàn nối lại đàm phán và chỉ nêu yêu cầu ta tập trung giúp giải quyết vấn đề MIA.
Ngay sau đó vào tháng 11/1991, hai đoàn gặp nhau, đoàn phía ta do đồng chí Lê Mai, Thứ trưởng Ngoại giao dẫn đầu, và phía Mỹ là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách Đông Á- Thái Bình Dương Robert Solomon.
Thời gian này, Mỹ quyết định bỏ việc hạn chế các cựu chiến binh, nhà báo, doanh nhân sang Việt Nam du lịch và đồng thời cũng bỏ việc hạn chế đi lại trong phạm vi 25 cây số đối với các cán bộ ta làm việc tại cơ quan đại diện Liên Hợp quốc ở New York.
Trên cơ sở quyết định đó, từ năm 1991, nhiều Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ Mỹ vốn đã từng tham chiến tại Việt Nam đã trở lại Việt Nam nhằm tìm hiểu tình hình và thăm những nơi họ đã từng đóng quân hoặc tham gia chiến đấu. Tất cả đều không ngờ trước thái độ bình thường, lịch sự, có lúc vui vẻ của người dân khi đón họ mà không hề lộ một nét gì căm ghét hay thù oán. Điều đó đã để lại cho họ ấn tượng vô cùng sâu sắc về thái độ bao dung của một dân tộc chịu nhiều đau thương mất mát đang ra sức khắc phục những hậu quả nặng nề sau chiến tranh.
Vì vậy, các cuộc đến thăm đó ít nhiều đã có tác dụng đến quá trình đàm phán bình thường hóa quan giữa hệ hai nước.
Những đột phá mang dấu ấn Clinton
Năm 1993, Tổng thống Clinton nhậm chức. Thời gian này, diễn ra một loạt hoạt động tích cực dẫn đến bình thường hóa thực sự.
Đặc biệt, Clinton đã hai lần gửi thư cho Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Lần thứ nhất vào tháng 5/1993 nhân dịp Thượng nghị sĩ John Kerry sang Việt Nam, hoan nghênh những bước đi của Việt Nam trong giải quyết vấn đề Campuchia và đề nghị tạo điều kiện cho Kerry thống kê đầy đủ số người Mỹ bị mất tích trong chiến tranh. Lần thứ hai vào tháng 8/1993 về đề nghị Việt Nam giúp giải quyết tích cực vấn đề người Mỹ mất tích.
Clinton cũng 2 lần gửi đoàn do Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Winston Lord dẫn đầu sang Việt Nam để trao đổi những vấn đề liên quan đến quan hệ giữa hai nước. Tham gia đoàn thứ nhất vào tháng 7/1993 có Thứ trưởng Bộ cựu binh và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân Mỹ. Đoàn thứ 2 vào tháng 5/1995 với sự tham gia của Thứ trưởng Quốc phòng trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Cũng vào lúc này Clinton thông báo giải tỏa quan hệ giữa Việt Nam và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB).
Tháng 6/1993, một số quan chức Mỹ thuộc cả hai đảng do cựu Ngoại trưởng Edmund Muskie đứng đầu đã ra lời kêu gọi chính quyền Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Cuối tháng 7/1993, Tổng thống Clinton cử một đoàn thương mại gồm đại diện 15 tập đoàn và công ty lớn của Mỹ sang Việt Nam để trao đổi và ký kết các dự án hợp tác cụ thể nhưng chờ sau khi cấm vận được bãi bỏ mới triển khai.
Tháng 9/1993, Clinton quyết định cho các công ty Mỹ tham gia các dự án do các cơ quan tài chính quốc tế giúp Việt Nam nhưng sẽ thực hiện sau khi bãi bỏ cấm vận.
Sau một thời gian giải quyết những bước đi thích hợp, ngày 3/2/1994, Tổng thống Clinton tuyên bố bãi bỏ cấm vận và đề nghị trao đổi văn phòng đại diện hai nước tại hai thủ đô.
Giữa tháng 5/1995, Clinton cử đoàn do Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Winston Lord dẫn đầu sang Việt Nam và trao đổi ý kiến về những vấn đề liên quan đến quan hệ giữa hai nước. Đoàn Mỹ lúc về nước tuyên bố quan hệ hai nước đã có những tiến bộ tích cực. Tháng 6/1995, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ gửi thư cho Tổng thống Clinton đề nghị xem xét vấn đề bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Ngày 11/7/1995, Tổng thống Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, trong đó đánh giá cao việc Việt Nam tích cực giải quyết vấn đề MIA và quyết định sẽ cử Bộ trưởng Ngoại giao sang Việt Nam ký Hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Ngày 12/7/1995, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt ra tuyên bố hoan nghênh tuyên bố của Tổng thống Clinton về bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, cho rằng điều đó đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước và nhân loại tiến bộ. Chủ tịch Võ Văn Kiệt cũng khẳng định đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước.
Ngày 5/8/1995, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Christopher sang thăm Việt Nam, và cùng với Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký Hiệp định chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Hai Bộ trưởng thỏa thuận bước đi đầu tiên hai nước cần làm là triển khai hợp tác kinh tế-thương mại.
Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Christopher và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (phải) tại lễ ký Hiệp định chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (Ảnh tư liệu: Phạm Cao Phong)
Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, việc kéo dài quá trình bình thường hóa chủ yếu do phía Mỹ điều chỉnh chính sách, thay đổi thái độ, đình chỉ các cuộc gặp vào thời kỳ cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Carter, trong nhiệm kỳ của Tổng thống Reagan và những năm đầu của nhiệm kỳ Tổng thống George W. Bush dưới sự tác động của quan hệ giữa các nước có liên quan ở khu vực và thế giới, trong đó có mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, Trung Quốc-Liên Xô…
Hơn nữa, việc thảo luận về bình thường hóa tiến hành trong khi hội chứng Việt Nam ở xã hội Mỹ vẫn còn rất nặng nề. Trong chính quyền cũng như xã hội Mỹ còn nhiều người phản đối điều này, vì vậy, Mỹ vừa làm vừa thăm dò dư luận và chỉ giải quyết từng bước, không dám giải quyết nhanh. Thái độ của các Tổng thống cũng có tác động nhất định đến quá trình đàm phán bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Nam Hằng ( thực hiện)
Theo Dantri
Tại sao Mỹ không bồi thường chiến tranh Việt Nam?
Đàm phán về bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ thường xuyên lâm vào thế bế tắc vì nhiều vấn đề, trong đó có bồi thường chiến tranh, người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA)... Năm 1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng cam kết "bồi thường" 3,25 tỷ USD cho Việt Nam.
Ông Lê Đức Thọ (trái) và ông Henry Kissinger tại Paris cuối tháng 1/1973. Ảnh: AP
Ông Phan Doãn Nam, thư ký của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thời kỳ Việt Nam và Mỹ đang đàm phán Hiệp định Paris, kể lại những câu chuyện liên quan quá trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, trong đó có vấn đề bồi thường chiến tranh và MIA.
Nhà máy thép không thành
Ông Nam kể, năm 1973, phía Việt Nam muốn nhận tiền bồi thường chiến tranh để xây dựng nhà máy thép 3 triệu tấn; phía Mỹ đồng ý thương lượng về vấn đề này, nhưng không gọi là bồi thường chiến tranh, mà là khoản đóng góp vào quá trình tái thiết Việt Nam. Phía Việt Nam lúc đầu đưa ra con số 5 tỷ USD, sau thương lượng thì rút xuống 3,25 tỷ USD. Tháng 2/1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng với nội dung Mỹ sẽ trả khoản tiền 3,25 tỷ USD. Ông Nam nói rằng, lúc đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam đang tập trung ký cho xong Hiệp định Paris, nên không phân tích kỹ một câu gần cuối thư có nội dung hai bên sẽ thực hiện thỏa thuận ghi trong thư đúng theo hiến pháp của mỗi nước. Theo ông Nam, chính câu này trở thành cớ để Mỹ sau đó không thực hiện cam kết trả 3,25 tỷ USD; vấn đề bồi thường nếu đưa ra Quốc hội Mỹ chắc chắn không được thông qua vì Quốc hội Mỹ hồi đó chống đối Việt Nam. Báo chí Mỹ về sau đưa tin, tác giả của câu đó chính là ông Henry Kissinger (cố vấn của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau trở thành Ngoại trưởng), ông Nam nói.
Ông Phan Doãn Nam (từng là Thư ký/Trợ lý của Thứ trưởng/Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch) trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong. Ảnh: Trúc Quỳnh
Trước đó, đoàn đại diện của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) Mỹ vẫn tư vấn cho Việt Nam cách chia nhỏ nhà máy thép công suất lớn thành nhiều nhà máy công suất nhỏ để tránh bị Quốc hội Mỹ gạt bỏ nếu cho rằng Việt Nam sản xuất nhiều thép để tiếp tục chiến tranh. Đoàn của USAID còn đưa ra yêu cầu tiền bồi thường phải được dùng để mua hàng của Mỹ và vận chuyển bằng tàu Mỹ, chứ không được trả bằng tiền mặt. Sau mấy tháng làm việc và tư vấn cho Việt Nam, đoàn này về nước và không hồi âm gì, ông Nam kể.
Ông Nam nói rằng, sau đó, Việt Nam mới nhận ra Mỹ chỉ muốn thăm dò xem nước ta có thực sự muốn xây dựng lại đất nước hay tiếp tục chiến tranh. Nhân có dòng chữ cuối thư mà phía Mỹ không đề cập chuyện viện trợ 3,25 tỷ USD nữa. Năm 1975, Mỹ cho rằng Việt Nam không thi hành Hiệp định Paris nên cũng không thực hiện cam kết của họ, trong đó có khoản bồi thường chiến tranh, ông Nam nói. Những cuộc đàm phán sau đó về bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ bế tắc vì nhiều vấn đề, trong đó có bồi thường chiến tranh, MIA... Thời gian đó, Mỹ luôn cho rằng, Việt Nam giữ lại hài cốt lính Mỹ và giấu tù binh Mỹ. Từ năm 1977 đến 1978, Việt Nam có ba cuộc thương lượng với Mỹ về bình thường hóa quan hệ, nhưng đều bế tắc vì hai vấn đề này, ông Nam kể. Sau đó, các cuộc đàm phán còn bị ảnh hưởng khi Trung Quốc chủ động thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ông nói. Tổng thống Mỹ Jimmy Carter hồi đó không chống Việt Nam, nhưng cho rằng thời cơ đến thì bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trước, sau đó với Việt Nam.
Về vấn đề MIA, Việt Nam đã nỗ lực giải quyết vấn đề tìm kiếm, trao trả nhiều hài cốt cho Mỹ. Phía Việt Nam phải trải qua nhiều khó khăn, vất vả, thậm chí thương vong trong quá trình đi tìm hài cốt lính Mỹ. Ông Nam kể rằng, một người bạn ông làm việc ở Bộ Ngoại giao đã tử nạn khi có mặt trên chiếc máy bay bị nổ trên đường đi tìm hài cốt Mỹ. Năm 1989, vợ chồng Tổng thống Mỹ Bill Clinton sang Việt Nam được mời ra tận thực địa để chứng kiến việc tìm kiếm hài cốt lính Mỹ khó khăn như thế nào. Ông Nam kể, phía ta nói với phía Mỹ rằng, Việt Nam còn có hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu chiến sĩ hy sinh trong chiến tranh chưa nhận dạng được, chưa biết mồ mả ở đâu; phía Mỹ dần dần hiểu ra rằng Việt Nam cũng đau lắm. Đến năm 1989, Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, xóa bỏ trở ngại cuối cùng trong tiến trình đàm phán. Đại sứ Mỹ lúc đó tuyên bố sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Henry Kissinger: Chúng tôi kính phục các ông
Ông Nam nói rằng, trong quá trình đàm phán bình thường hóa quan hệ, thái độ của phía Việt Nam rất nghiêm túc, biết "đánh đúng chỗ họ cần", và được phía Mỹ đánh giá cao. Là người tham gia quá trình đàm phán Hiệp định Paris, ông Nam kể lại câu chuyện sau 5 năm đàm phán ở Paris, buổi cuối cùng vào tháng 1/1973, đoàn Việt Nam mời cơm thân mật đoàn Mỹ. Ông Lê Đức Thọ trong bữa đó đã hỏi ông Henry Kissinger nghĩ sao về đoàn Việt Nam. "Không phải là người thân Việt Nam, nhưng Kissinger đã nói rằng, chuyện các ông chiến đấu oanh liệt là không ai chối cãi. Nhưng nếu các ông chỉ gan dạ, anh dũng thì chúng tôi cũng dễ đối phó. Nhưng đằng này các ông còn rất khôn ngoan, mưu lược, nên 5 năm nay chúng tôi phải đấu với các ông không phải dễ. Chúng tôi rất kính phục các ông", ông Nam kể.
Sau khi ký Hiệp định Paris, Mỹ vẫn không đồng ý Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, nhưng Tổng thống Nixon nói rằng, Mỹ sẽ không bao giờ xem Việt Nam là kẻ thù, và trong thời gian chưa bình thường hóa quan hệ, sẽ không công nhận bất kỳ chính phủ lưu vong nào chống lại chính phủ Việt Nam, ông Nam cho biết.
Ông Nam cho rằng, Việt Nam và Mỹ từng có không ít cơ hội để có thể "chơi" với nhau từ rất sớm. Ông kể, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara đã tổ chức năm cuộc hội thảo tại Việt Nam và một hội thảo ở Ý để tìm ra trong quan hệ Việt - Mỹ có cơ hội nào bị bỏ lỡ. Sau khi Việt Nam độc lập, Bác Hồ gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman. Chiến tranh Lạnh khi đó chưa đến, và Tổng thống Truman vẫn nói ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc. Bác Hồ tin tưởng như vậy nên mới gửi thư cho Tổng thống Truman, nhưng ông này không trả lời, ông Nam kể. Bản thân ông McNamara ít nhất 7 lần đề nghị chính phủ Mỹ đàm phán, nhưng cũng bị bỏ qua...
Quan hệ Việt - Mỹ đang phát triển thuận lợi
Trong bức thư gửi Tổng thống Truman ngày 16/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mục tiêu của Việt Nam là "độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ". Người cũng khẳng định Việt Nam "sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới". Thế giới ngày nay đang vận động rất nhanh, đòi hỏi hai nước không được phép bỏ lỡ những cơ hội lịch sử như những giai đoạn trước, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh nhận định. Chặng đường 20 năm qua, nhất là từ khi hai nước xác lập quan hệ Đối tác toàn diện tháng 7/2013, đã chỉ ra rằng, hòa bình và thịnh vượng ở Đông Nam Á nói riêng và khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung có nhiều điều kiện được duy trì hơn khi quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ phát triển thuận lợi; quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phù hợp với lợi ích chung của tất cả các nước trong khu vực, Phó Thủ tướng khẳng định.
Theo Trúc Quỳnh
Tiền phong
"Bình thường hóa quan hệ Việt- Mỹ là thành tựu lớn nhất đời tôi" Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton khẳng định, bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ giúp gỡ bỏ gánh nặng của người dân Mỹ sau Chiến tranh Việt Nam. Theo AP, phát biểu tại Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam ngày 2/7 trong lễ kỷ niệm ngày Quốc khánh Mỹ (4/7) với tư cách là khách mời danh dự, ông Clinton mô tả...











Tiêu điểm
Tin đang nóng
Tin mới nhất

Thổ Nhĩ Kỳ : 'Con át chủ bài' cản bước EU loại bỏ khí đốt Nga?

Đại sứ quán Trung Quốc tại Anh phát cảnh báo sau nhiều vụ mất tích

Ông Trump nói gì với Tim Cook khi đạt được thỏa thuận thuế với Trung Quốc?

LHQ kêu gọi ngăn chặn hậu quả nhân đạo nghiêm trọng tại Dải Gaza

Kịch bản khiến cuộc chiến thương mại của Tổng thống Trump đột ngột ngừng lại vào tháng 6

Nga thành lập trung đoàn thiết bị không người lái để đối phó chiến thuật mới của Ukraine

Tổng thống Trump công du Vùng Vịnh: Mục tiêu kinh tế, rủi ro ngoại giao?

Saudi Arabia đạt cột mốc quan trọng trong nỗ lực nội địa hóa sản xuất quốc phòng

Ngoại trưởng Mỹ sẽ dự cuộc đàm phán hòa bình Nga - Ukraine

Nhà lãnh đạo Triều Tiên truyền đạt nhiệm vụ 'then chốt' khi thị sát lực lượng đặc nhiệm tập trận

Thủ tướng Ấn Độ đánh giá vai trò của S-400 trong Chiến dịch Sindoor

Ukraine hoàn tất thủ tục cho thỏa thuận khoáng sản với Mỹ
Có thể bạn quan tâm

Ngắm bản dựng concept Toyota Corolla Sedan 2027 với nhiều công nghệ mới
Ôtô
15:28:56 14/05/2025
Kay Trần, Thanh Duy được mời đóng phim điện ảnh nhờ sức hút từ show 'Anh trai'?
Hậu trường phim
15:27:37 14/05/2025
Cựu giám đốc trung tâm đăng kiểm cùng đồng phạm lĩnh án vì nhận hối lộ
Pháp luật
15:25:06 14/05/2025
'Ông hoàng K-pop' sắp đến Việt Nam giàu có thế nào?
Sao châu á
15:24:59 14/05/2025
Chị gái U80 đưa em gái 69 tuổi vào bệnh viện ở Hà Nội, nói câu đầy xót xa
Netizen
15:24:37 14/05/2025
Chồng bị nhân tình "lột sạch" tiền, quay về quỳ gối xin tôi một điều
Góc tâm tình
15:23:37 14/05/2025
Giá xe Future 125 FI 2025 mới nhất giảm sốc, rẻ chưa từng có, Wave Alpha, RSX bị cạnh tranh doanh số
Xe máy
15:23:12 14/05/2025
CĂNG: Bạn thân Wren Evans phốt ngược Lim Feng lợi dụng, đàng gái "phản kèo" bóc thêm loạt tình tiết chấn động
Sao việt
15:19:31 14/05/2025
Đơn vị xây cầu Hòa Bình là nhà thầu "quen mặt" tại Tây Ninh
Tin nổi bật
15:11:36 14/05/2025
Nguyễn Quang Anh: Từ "Về nhà đi con" đến nghiêm túc với sân chơi âm nhạc
Tv show
15:06:53 14/05/2025