Giải mã 4 lầm tưởng phổ biến của chị em về đậu nành
Đậu nành hoàn toàn không gây ung thư và càng không ảnh hưởng gì tới giới tính của người sử dụng. Đó chỉ là những lầm tưởng phổ biến của nhiều người mà thôi.
Lầm tưởng 1: Đậu nành gây ung thư
Thông tin sai lệch về mối quan hệ giữa đậu nành với bệnh ung thư chủ yếu xuất phát từ sự nhầm lẫn xung quanh sự hiện diện của kích thích tố nữ Phytoestrogen trong đậu nành. Nhưng các nhà khoa học nhấn mạnh Phytoestrogen không phải là estrogen. Estrogen và testosterone là hai hormone có sẵn tự nhiên trong cả hai giới tính nam và nữ của con người. Hai hormone này giúp điều hòa chức năng tìn.h dụ.c và các đặc điểm sin.h dụ.c thứ phát, ngoài chức năng tế bào mang tính nhục dục. Trong khi estrogen đóng nhiều vai trò quan trọng mang lại lợi ích cho cơ thể, nó cũng tự nhiên thúc đẩy sự phát triển của các tế bào, và ở mức độ cao, có thể làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư.
Đậu nành không chứa estrogen, chất có trong đậu nành được gọi là Phytoestrogen chỉ là một thuật ngữ nhằm chỉ nhiều hợp chất thực vật tự nhiên có cấu trúc tương tự như estrogen ở động vật có vú. Phytoestrogen bắt chước chức năng có lợi của estrogen và ngăn chặn các tác động xấu của estrogen. Sự trao đổi chất và chức năng của kích thích tố nữ là vô cùng phức tạp, và khác nhau giữa các cá nhân. Kích thích tố nữ isoflavones trong đậu nành không có tác dụng gây phát triển khối u. Trong thực tế, isoflavone đã được chứng minh có khả năng bảo vệ chống lại các bệnh ung thư do hormone.
Mối quan hệ nghịch đảo giữa lượng đậu nành phụ nữ dùng và nguy cơ phát triển ung thư vú đã được chứng minh rõ ràng. Nói cách khác, bạn càng dùng nhiều đậu nành thì càng có ít khả năng mắc bệnh ung thư vú.
Đậu nành hoàn toàn không gây ung thư và càng không ảnh hưởng gì tới giới tính của người sử dụng. Ảnh minh họa
Lầm tưởng 2: Tiêu thụ đậu nành ảnh hưởng đến tìn.h dụ.c
Video đang HOT
Thực tế: Không có bằng chứng lâm sàng cho thấy đậu nành ảnh hưởng đến sự khả năng tìn.h dụ.c. Đậu nành có chứa isoflavone, còn được gọi là kích thích tố nữ hay “estrogen thực vật”. Tuy nhiên, isoflavone vốn khác với hormone nữ giới estrogen nên việc dùng đậu nành khiến con người bị thay đổi xu hướng tìn.h dụ.c hoàng toàn là chuyện hoang đường không có bất kỳ cơ sở hay dẫn chứng đáng tin cậy nào.
Lầm tưởng 3: Đậu nành gây ra vấn đề tuyến giáp
Tính đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy đậu nành không ảnh hưởng xấu đến chức năng tuyến giáp như chúng ta vẫn lo ngại. Ở những người bình thường protein đậu nành có thể ức chế sự hấp thu của các loại thuố.c chữa các vấn đề tuyến giáp được kê đơn cho các bệnh nhân suy giáp, nhưng điều đó không có nghĩa là khi bị suy giáp bạn phải tránh xa đậu nành.
Theo các nhà khoa học, bệnh nhân sử dụng thuố.c tuyến giáp chỉ cần tránh dùng các sản phẩm có chứa đậu nành trong vòng 1 tiếng trước và sau khi dùng thuố.c để đảm bảo hiệu quả của thuố.c.
Lầm tưởng 4: Đậu nành làm tăng nguy cơ bệnh tim
Trên thực tế, theo FDA, tiêu thụ 25 gram protein đậu nành mỗi ngày, như một phần của một chế độ ăn uống lành mạnh giúp hạ thấp chất béo bão hòa và cholesterol, có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Nghiên cứu lâm sàng cho thấy protein đậu nành làm giảm trực tiếp mức cholesterol LDL, đậu nành cũng có chứa các axit béo omega-3, giúp bảo vệ sức khỏe tim mạch. Hơn nữa, các loại thực ph ẩm thực vật như sữa đậu nành chứa ít chất béo bão hòa và cholesterol hơn so với các loại sữa động vật, do đó sữa đậu nành một sự lựa chọn thông minh cho sức khỏe tim mạch.
Theo Trí Thức Trẻ
Tuyệt đối không bảo quản khoai tây trong tủ lạnh
Thủ phạm đằng sau vấn đề này là acrylamide, một hóa chất dùng trong nhiều ngành công nghiệp, có khả năng gây ung thư ở người, đồng thời làm tổn thương hệ thần kinh nếu tiếp xúc với liều lượng lớn.
Sự lo ngại về acrylamide trong thực phẩm dấy lên từ năm 2002, khi Cơ quan quản lý thực phẩm quốc gia Thụy Điển nhìn thấy độc tố này trong một số loại thực phẩm chứa tinh bột khoai tây được chế biến ở nhiệt độ cao.
Trên thực tế, nhiều loại thực phẩm tưởng như "hiền lành", vô hại khác như cà phê, bánh mì, bánh quy... cũng có thể dẫn đến ung thư.
Đứng đầu danh sách thực phẩm có hàm lượng acrylamide cao nhất là khoai tây chiên, cà phê, bánh ngọt, bánh quy, bánh mỳ các loại
Nghiên cứu của các nhà khoa học Na Uy, Thụy Sĩ, Anh và Mỹ sau đó đã làm rõ thêm vấn đề: Không chỉ có tinh bột khoai tây mà các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật giàu carbohydrates, ít protein khác khi được chế biến bằng các phương pháp đòi hỏi nhiệt độ cao (>120 độ C) như rán, quay, nướng, đều xuất hiện acrylamide.
Hiện tượng này không thấy xảy ra ở các thực phẩm có nguồn gốc động vật như thịt, sữa, hải sản... cũng như thực phẩm có nguồn gốc thực vật nhưng chế biến ở nhiệt độ thấp như luộc, hấp.
Không bảo quản khoai tây trong tủ lạnh và trước khi chế biến ngâm nước khoảng 30 phút để loại bỏ hợp chất gây ung thư.
Nguyên nhân là do khi bị làm nóng ở nhiệt độ cao, asparagine (một loại axit amin) và đường tự nhiên trong thực phẩm là thực vật sẽ phản ứng với nhau để tạo thành acrylamide càng tăng. Đứng đầu danh sách thực phẩm có hàm lượng acrylamide cao nhất là khoai tây chiên (bao gồm cả loại tự chế biến ở gia đình và loại đóng gói sẵn), cà phê, bánh ngọt, bánh quy, bánh mỳ các loại.
Tổ chức Y tế thế gới (WHO) và tổ chức Nông lương LHQ (FAO) đều coi acrylamide trong thực phẩm là mối lo ngại nghiêm trọng. Nghiên cứu trên động vật cho thấy chất này làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư.
Ở người, tuy còn cần thêm nhiều nghiên cứu để làm rõ cơ chế tác động của acrylamide và hậu quả có nó, song bước đầu, các nhà khoa học cũng đã khẳng định có sự liên quan giữa chế độ ăn uống nhiều acrylamide với nguy cơ mắc ung thư vú và ung thư tế bào thận.
Cho đến nay chưa có phương pháp nào loại bỏ hoàn toàn acrylamide ra khỏi thực phẩm. Nhưng bạn có thể giảm bớt lượng độc tố này bằng một số phương pháp sau:
- Đối với loại thực phẩm có nguy cơ cao như khoai tây chiên, bánh mỳ, bánh quy, bánh ngọt, bánh phồng tôm..., khi chế biến tuyệt đối không nên để quá già, không ăn các phần bị cháy vì những phần này tập trung nhiều acrylamide nhất. Không rán hoặc nướng lại nhiều lần. Không nên ăn quá nhiều các loại thực phẩm có nguy cơ cao cùng lúc.
- Riêng đối với khoai tây, nên cắt lát và ngâm vào nước từ 15 đến 30 phút trước khi rán. Không nên bảo quản khoai tây trong tủ lạnh vì như vậy sẽ làm tăng lượng đường trong khoai, dẫn đến tăng acrylamide khi chế biến.
Theo Nld
Amiăng trắng làm tấm lợp cũng gây ung thư Việt Nam là một trong 10 nước sử dụng nhiều nhất amiăng trắng để sản xuất tấm lợp. Các nghiên cứu trên thế giới đều khẳng định, tất cả amiăng, kể cả amiăng trắng, đều gây ung thư. Đây là ý kiến của trên 100 đại biểu thuộc Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, đại diện Bộ Y...