Giải bài toán nhân lực du lịch chất lượng cao
Việt Nam với nhiều lợi thế về tài nguyên du lịch để phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của du lịch đang gặp nhiều “rào cản” do thiếu nguồn nhân lực lành nghề, chất lượng cao.
Nhân lực du lịch chất lượng cao hiện còn rất thiếu. Trong ảnh: Hướng dẫn viên giới thiệu cho du khách nước ngoài tham quan Hội trường Thống Nhất. Ảnh T.D
“Khát” nhân lực chất lượng cao
Đó là ý kiến của nhiều của nhiều đại biểu tại Diễn đàn “ Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam 2019″ diễn ra ngày 12/4, tại Hội trường Thống nhất (TPHCM) do UBND TPHCM chỉ đạo Sở Du lịch TPHCM phối hợp với Trường Đại học Hoa Sen tổ chức.
Theo Ban Tổ chức, nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và cơ cấu. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch đã dần được nâng cao. Hiện tại, cả nước có 346 cơ sở đào tạo du lịch các cấp từ sơ cấp đến đại học. Riêng TPHCM có 63 cơ sở đào tạo du lịch (24 trường đại học, 20 trường cao đẳng, và 19 trường trung cấp).
Tuy nhiên, ngành du lịch vẫn còn gặp những bất cập trong tổ chức đào tạo và phát triển nguồn nhân lực như quy mô đào tạo tăng mạnh nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế.
Theo Tổng cục Du lịch, mỗi năm toàn ngành cần thêm gần 40.000 lao động nhưng lượng sinh viên chuyên ngành ra trường chỉ khoảng 15.000 người/năm, trong đó chỉ hơn 12% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên…
Ông Bùi Tá Hoàng Vũ, Giám đốc Sở Du lịch TPHCM cho biết, nhiều chỉ tiêu lẽ ra được coi là lợi thế của du lịch Việt Nam vẫn chưa được đánh giá cao, trong đó có chỉ tiêu về nguồn nhân lực chưa phải là lợi thế so với các nước khác. Dù tài nguyên du lịch có ưu đãi nhưng nếu thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực lành nghề, chất lượng cao – điều kiện quan trọng để đảm bảo chất lượng dịch vụ – sự tăng trưởng du lịch vẫn còn lực cản.
Video đang HOT
Tuy nhiên, hiện nguồn nhân lực du lịch thành phố chỉ mới đáp ứng 70% nhu cầu, thiếu hướng dẫn viên biết nói tiếng Đức, Hàn Quốc, Thái Lan… làm hạn chế trong việc đa dạng hoá thu hút khách du lịch.Ví dụ điển hình, TPHCM hiện có 140.000 lao động trực tiếp trong ngành du lịch, 15% trình độ Đại học, 50% trình độ trung cấp cao đẳng, 5.400 hướng dẫn viên, 63 cơ sở đào tạo ngành du lịch cung cấp 3.000 lao động hàng năm cho cả nước. Phấn đấu đến 2020 du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy kinh tế – xã hội và các ngành khác, đồng bộ, sản phẩm đa dạng có thể cạnh tranh với các nước khác trong khu vực.
Bên cạnh đó, theo ông Bùi Tá Hoàng Vũ, năng suất lao động còn thấp so với các nước trong khu vực. Năm 2018, ngành du lịch Việt Nam đón 15,5 triệu lượt khách quốc tế, doanh thu du lịch cả nước 23 tỉ USD, đóng góp 7,5% vào GDP. Đây là mức tăng doanh thu ấn tượng nhưng năng suất lại khá thấp, với chỉ 3.477 USD/năm/người. Trong khi đó ở Singapore, đất nước với số dân gần 5,9 triệu người nhưng có tới khoảng 80% làm trong ngành du lịch, mỗi lao động trong ngành tạo ra 47.713 USD/năm, gấp 15 lần Việt Nam; còn ở Thái Lan, mỗi lao động tạo ra 8.369 USD/năm, gấp 2,5 lần.
Do đó, để phát triển bền vững thì đòi hỏi phải có nguồn lao động chất lượng cao. Để giải bài toán nguồn nhân lực du lịch, GS-TS Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen, kiến nghị trong hoạch định chính sách và triển khai, cần đưa các chỉ số đào tạo nhân lực thành phần quan trọng nhất trong xây dựng chiến lược, kế hoạch triển khai và theo dõi phát triển du lịch cả nước, và địa phương. Đối với các sở du lịch, cần phối hợp với các trường đại học triển khai chiến lược đào tạo các bộ quản lý địa phương, đặc biệt các địa phương tập trung phát triển kinh tế du lịch, các tư duy, kiến thức và kỹ năng cập nhật để nâng cấp nguồn nhân lực chất lượng cao tại điạ phương.
Ngoài ra, theo bà Mai Hồng Quỳ, các trường đại học khi mở ngành đào tạo du lịch, cần xác định rõ chiến lược đào tạo, phân khúc ngành nghề, chức danh nghề để phát triển chương trình và phương pháp đào tạo phù hợp. Song song đó, các trường đại học có đào tạo nhân lực du lịch cần có sự hợp tác chia sẻ thông tin và kinh nghiệm trong đào tạo…
Ông Nguyễn Quốc Kỳ, Chủ tịch HĐQT Công ty du lịch Vietravel cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, các trường học nên chú trọng đào tạo thực hành. Bởi thực tế, doanh nghiệp hầu như phải đào tạo lại, đối với các em sinh viên đã tốt nghiệp ra trường. Theo đó, cần có chính sách khuyến khích thành lập các trường trong doanh nghiệp, chú trong đào tạo chuyên sâu, chuyên ngành cho đối tượng trực tiếp làm du lịch; đào tạo cho đối tượng quản lý.
Ngoài ra, theo một số đại biểu, để giải bài toán nguồn nhân lực cần giải quyết những bất cập trong quy mô đào tạo, sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, chính sách và hành lang pháp lý…
Thu Dịu
Theo báo hải quan online
Ngành Công nghệ thông tin và ngành Khoa học máy tính có khác nhau không?
Một thí sinh dự thi THTP quốc gia 2019 và đăng ký xét tuyển ĐH,CĐ băn khoăn: Năm nay, em muốn đăng ký học ngành khoa học máy tính. Nhưng em không biết ngành khoa học máy tính và công nghệ thông tin khác nhau như thế nào?
Trả lời câu hỏi này, PGS. Tạ Hải Tùng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và Truyền thông thuộc Đại học Bách Khoa Hà Nội, cho biết:
Đã từ lâu, ở Việt Nam, khi muốn trở thành lập trình viên, hay chuyên gia phát triển phần mềm, người ta sẽ nghĩ ngay đến việc theo học ngành Công nghệ Thông tin (CNTT).
Tuy nhiên, nếu theo dõi các chương trình đào tạo của các trường đại học trên Thế giới, đặc biệt các trường ĐH kỹ thuật - công nghệ nổi tiếng của Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc..., chúng ta sẽ thấy họ hầu như không đào tạo ngành CNTT (Information Technology) mà đa phần cung cấp các chương trình đào tạo về Khoa học Máy tính (Computer Science).
Rõ ràng ở đây có sự khác nhau về cách hiểu trong đào tạo ĐH liên quan đến lĩnh vực CNTT giữa Việt Nam và Thế giới. Sự khác nhau này có thể gây ra đôi chút khó khăn khi chuyển đổi bằng cấp, hoặc công nhận tương đương khi sinh viên có nhu cầu đi du học chuyển tiếp hoặc xin việc tại thị trường lao động quốc tế.
Ở đa phần các ĐH trên Thế giới, các nội dung đào tạo liên quan đến máy tính, như toán rời rạc,giải thuật, cấu trúc dữ liệu, kỹ thuật lập trình, cơ sở dữ liệu, kỹ thuật phần mềm, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, trí tuệ nhân tạo... được cung cấp trên cơ sở ngành đào tạo Khoa học Máy tính (KHMT).
Học ngành này, sinh viên sẽ có khả năng làm chủ mọi khâu để phát triển một phần mềm, một chương trình, và một hệ thống thông tin xử lý các vấn đề trong thực tiễn, ví dụ: phần mềm quản lý nhân sự, phần mềm quản trị doanh nghiệp ERP, trò chơi video, website thương mại trực tuyến, phần mềm nhận dạng chữ viết...
Sinh viên ngành CNTT
Còn CNTT là nghề mang tính kỹ thuật viên nhiều hơn, ví dụ: cài đặt, vận hành, quản trị hệ thống máy tính, hệ thống mạng, hệ thống cơ sở dữ liệu. Vì vậy, nếu muốn học để trở thành lập trình viên, và nhà phát triển phần mềm thì nghĩa là học KHMT, chứ không phải học CNTT.
Ngoài ra, nếu người học muốn hiểu biết thêm về phần cứng, bên cạnh phần mềm thì có thể chọn ngành Kỹ thuật Máy tính (Computer Engineering): ngành này là lai giữa ngành Khoa học Máy tính (nghiêng về phần mềm), và ngành Kỹ thuật Điện-Điện tử (Electrical &Electronic Engineering, nghiêng về phần cứng).
Ngành KTMT hướng tới việc phát triển các hệ thống tính toán tích hợp tối ưu giữa phần cứng và phần mềm. Nghĩa là, học về ngành này, sinh viên sẽ nắm được cả về cách viết phần mềm, làm phần cứng, và làm thế nào để tích hợp phần mềm và phần cứng này thành một hệ thống tối ưu để giải quyết một vấn đề thực tiễn.
Ví dụ: phát triển camera thông minh truyền hình ảnh về trung tâm dữ liệu: kỹ sư phải làm phần cứng (tích hợp các mô-đun thu nhận ảnh, mô-đun vi xử lý, mô-đun truyền thông), viết phần mềm thu nhận hình ảnh, xử lý hình ảnh, và truyền hình ảnh về trung tâm.
Cuối cùng, trong thời gian gần đây, sự bùng nổ của Internet và các hệ thống thu thập dữliệu đã tạo ra các nguồn dữ liệu khổng lồ (big data), mà nếu được khai thác hợp lý sẽ tạo ra những thông tin vô cùng giá trị, ví dụ: dự báo nhu cầu nhân lực ngành KHMT, KTMT tại Việt Nam và trên Thế giới; dự báo điểm chuẩn thi đại học các trường theo từng ngành...
Vì vậy, các lĩnh vực xử lý dữ liệu, vốn nằm trong KHMT đã tách ra để tạo thành một ngành mới: Khoa học Dữ liệu (Data Science). Học về KHDL, sinh viên sẽ được trang bị kiến thức về toán (đặc biệt về xác suất, thống kê), khoa học máy tính (đặc biệt về học máy, khai phá dữ liệu, trí tuệ nhân tạo...), và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ của một số lĩnh vực để có thể trở thành các nhà khoa học dữ liệu.
Triển vọng nghề nghiệp của sinh viên ngành KHDL không chỉ dừng lại ở việc làm cho các các công ty về CNTT, mà trong kỷ nguyên Công nghiệp 4.0 này, sinh viên ra trường còn có thể làm việc tại các bộ phận nghiệp vụ chuyên môn sâu của mọi tổ chức có nhu cầu khai thác dữ liệu, như: tài chính - ngân hàng - bảo hiểm - chứng khoán, phân tích thị trường, tư vấn-dự báo-hoạch định chính sách...
Vì vậy, có thể nói rằng, dù còn có thể có một số cách hiểu khác biệt (như ở Việt Nam), nhưngphổ biến trên Thế giới hiện nay, liên quan đến đào tạo nhân lực trong lĩnh vực CNTT nói chung, các trường đại học đang cung cấp các chương trình đào tạo trong 3 ngành cốt lõi: KHMT, KTMT, và KHDL.
Trong đó: KHMTchuyên sâu về công nghệ phần mềm, hệ thống thông tin...; KTMT chuyên sâu về hệ nhúng và IoT, mạng máy tính, an toàn thông tin...; và KHDL chuyên sâu về xử lý dữ liệu, và trí tuệ nhân tạo.
Hiện tại, ở Việt Nam, một số trường kỹ thuật trong đó có Đại học Bách Khoa Hà Nội, đã theo cách phân ngành như trên để vừa đảm bảo thiết kế chương trình theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quy đổi bằng cấp tương đương, và quan trọng hơn, giúp các em sinh viên định hướng ngay từ đầu lĩnh vực đúng với năng lực, phù hợp với đam mê để phát triển sự nghiệp của mình.
Theo tiền phong
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng phát triển mạnh về công nghệ Hôm nay (7/4), tại Hà Nội, Sự kiện 'The 4th Global Chain - Vietnam Blockchain Day 2019' đã được tổ chức. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều triển vọng về công nghệ khi có tới 40% dân số có độ tuổi dưới 25; lực lượng lao động trẻ hấp dẫn doanh nghiệp, nhà đầu tư trong tương lai. Sự...