Giá dầu giảm sâu sẽ ảnh hưởng thế nào đến kinh tế Việt Nam?
Giá dầu giảm sẽ gây ra nhiều bất lợi, tuy nhiên nếu chuẩn bị tốt phương án ứng phó thì có thể biến thành cơ hội cho kinh tế phát triển.
Việc giá dầu thế giới giảm liên tục trong thời gian qua đã tác động mạnh tới nền kinh tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ nói chung trong đó có Việt Nam. Giá dầu xuống thấp đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng khai thác dầu khí của Việt Nam, từ đó dẫn đến giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước và kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Nhiều nhận định cho thấy, giá dầu liên tục trượt dốc một phần do nhu cầu dần hạn chế, trong khi nguồn cung dầu trên thế giới vẫn tiếp tục tăng, thậm chí còn kéo dài sang cả năm 2016. Khi không loại trừ khả năng giá dầu duy trì ở mức thấp trong dài hạn, đề ra phương án đối phó, tính toán tầm ảnh hưởng của giá dầu đến nền kinh tế Việt Nam là việc phải tính đến.
Nền kinh tế sẽ rơi vào giảm phát sâu
Với kịch bản giá dầu tiếp tục giảm xuống mức 30 USD/thùng trong năm 2016, TS. Lương Văn Khôi, Trưởng ban Kinh tế thế giới thuộc Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế – Xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận định, các nền kinh tế xuất khẩu dầu mỏ sẽ chịu tác động tiêu cực và rất nặng nề trong năm 2016 và tăng trưởng kinh tế thế giới giảm. Riêng GDP của Việt Nam có thể sẽ sụt giảm mạnh.
“Với kịch bản giá dầu ở mức 30 USD/thùng, mặc dù kim ngạch xuất khẩu vẫn được cải thiện nhẹ (tăng 0,9%) và kim ngạch nhập khẩu giảm 2,8% trong bối cảnh t.iền đồng tăng giá (3,78 điểm %) và chi tiêu Chính phủ giảm mạnh do thu ngân sách từ xuất khẩu dầu thô giảm, nên GDP của Việt Nam có thể giảm 2,28% trong năm 2016″, TS. Khôi nhận định.
Giá dầu giảm gây nên nhiều khó khăn cho hoạt động khai thác dầu trong nước. (Ảnh: VnEconomy)
TS. Khôi cũng cho rằng, với mức giảm giá dầu này sẽ khiến lạm phát Việt Nam giảm 126,62%, nền kinh tế Việt Nam ở trong tình trạng giảm phát sâu. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thế giới những năm sau được cải thiện nên sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Video đang HOT
“Giá dầu giảm dẫn đến việc thu ngân sách giảm mạnh sẽ tác động tiêu cực tới chi tiêu Chính phủ và cầu trong nước, khiến quy mô GDP suy giảm mạnh trong 3 năm giai đoạn 2016-2020″, TS. Khôi cho hay.
Trong khi đó, nhận định về giá dầu trong thời gian tới, PGS. TS Bùi Xuân Hồi, Giảng viên Bộ môn Kinh tế Công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội lại cho rằng, trong năm 2016 giá dầu nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì chu kỳ giá thấp, dao động trong khoảng 25 – 40 USD/thùng.
“Đây là mức giá trung bình năm khi bỏ qua những dao động mang tính chất tức thời. Điều này sẽ có những tác động đến nền kinh tế có thể quan sát được là những đóng góp vào Ngân sách Nhà nước từ doanh thu xuất khẩu dầu sẽ giảm, việc đầu tư phát triển của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) – đặc biệt là trong thăm dò và khai thác dầu khí tiếp tục gặp khó khăn”, PGS. TS Bùi Xuân Hồi cho biết.
Tuy nhiên, PGS. TS Bùi Xuân Hồi cũng phân tích, khi giá dầu giảm thấp, Việt Nam có cơ hội để kiểm soát lạm phát ở mức thấp, gia tăng sức mua của người dân. Hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước và xuất khẩu phi xăng dầu sẽ tiếp tục phát triển, từ đó tăng cơ cấu nguồn thu ngân sách từ các hoạt động kinh doanh trong nước. Điều này cũng hết sức phù hợp với bối cảnh kinh tế nước ta đang trong quá trình hồi phục và tăng trưởng trở lại.
Tận dụng được cơ hội từ giá dầu giảm
Đề phòng phương án ứng phó với kịch bản giá dầu tiếp tục giảm sâu, TS. Lương Văn Khôi cho rằng, trong bối cảnh t.iền các đồng t.iền đều tăng giá, Ngân hàng Nhà nước cần theo dõi sát sao diễn biến giá dầu thế giới và diễn biến chính sách t.iền tệ của các quốc gia để chủ động và có những bước điều chỉnh tỷ giá cho phù hợp.
“Nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng giảm phát nặng nên tùy thuộc vào điều kiện vĩ mô, cần có những biện pháp bổ trợ khác như nới lỏng t.iền tệ để kích thích tăng trưởng nền kinh tế. Các cơ quan quản lý cần xem xét giảm giá xăng dầu thành phẩm, kích thích những ngành sử dụng xăng dầu như vận tải phát triển, giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp, kích thích tăng trưởng kinh tế”, TS. Khôi cho biết.
Ngoài ra, theo TS. Khôi, để đảm bảo nguồn thu ngân sách khi khu vực kinh tế được cải thiện, Chính phủ cần cải cách toàn diện hệ thống thuế quốc gia từ Trung ương xuống địa phương nhằm tránh thất thu thuế, đảm bảo nguồn thu hoặc bù đắp phần suy giảm do tác động giảm giá dầu thế giới tới Ngân sách Nhà nước.
“Trong khi những giải pháp trên chỉ mang tính ngắn hạn, thích ứng với điều kiện kinh tế vĩ mô, giải pháp căn cơ là nhân cơ hội này tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế một cách toàn diện, đặc biệt là tái cơ cấu doanh nghiệp trong nước nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam và của cả nền kinh tế”, TS. Khôi chỉ rõ.
Nêu giải pháp thích ứng với giá dầu giảm, PGS. TS Bùi Xuân Hồi cho rằng, rất cần thiết khi thừa nhận một kịch bản giá dầu thấp và có thể kéo dài để chủ động trong việc lập kế hoạch thu chi cấp quốc gia, cơ cấu thu Ngân sách Nhà nước để từ đó có thể tận dụng được các cơ hội từ việc giá dầu giảm.
“Chúng ta có tận dụng cơ hội này hay không phụ thuộc vào việc khai thác tối đa những ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế, từ đó có tác động tổng hợp, biến việc giá dầu giảm có đóng góp cho GDP và phát triển kinh tế theo hướng bền vững”, PGS. TS Bùi Xuân Hồi bày tỏ./.
Nguyễn Quỳnh
Theo_VOV
Giữ ổn định quy mô thu ngân sách nhà nước
Theo công bố mới đây của Bộ Tài chính, nếu thực hiện Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), các nước đã cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu dành cho hàng hóa của Việt Nam vào khoảng từ 78 đến 95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97 đến 100% dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế trong vòng từ năm đến mười năm, trừ một số mặt hàng nhạy cảm có lộ trình hơn mười năm hoặc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan.
Tham gia TPP ngành dệt may sẽ được hưởng lợi với mức thuế suất 0%. Trong ảnh: May véc-tông xuất khẩu tại Tổng Công ty May 10 (Hà Nội). Ảnh: ANH SƠN
Tác động giảm thu không lớn
Theo Thứ trưởng Công thương Trần Quốc Khánh, tác động của TPP đến thu ngân sách Nhà nước (NSNN) là thách thức được các nhà kinh tế và nhà quản lý rất chú ý. Với các quốc gia mà nguồn thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách, việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) một lúc có thể gây khó khăn lớn cho điều hành thu - chi NSNN, nhất là khi phải cắt giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong thời gian ngắn. Vấn đề nêu trên đã được Bộ Tài chính lưu ý trong đàm phán gia nhập WTO cũng như đàm phán các FTA hiện nay. Thuế suất tuy có giảm, thậm chí được xóa bỏ theo cam kết quốc tế nhưng tốc độ giảm được kiểm soát chặt chẽ, theo lộ trình được tính toán cẩn trọng nên tác động bất lợi đã được khắc phục. Giải pháp này, kết hợp với những nỗ lực của ngành tài chính trong việc đa dạng hóa nguồn thu, tổng thu NSNN (bao gồm cả tổng thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu) vẫn tăng đều qua các năm sau khi gia nhập WTO đến nay, tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, đáp ứng được nhu cầu chi của NSNN.
Theo thống kê của Bộ Tài chính, nếu như năm 2005, số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu là 38,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,4% tổng thu NSNN thì năm 2010, số thu này là 175 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 9,2% tổng thu NSNN. Tuy nhiên, TPP là FTA thế hệ mới và dự kiến cũng sẽ tác động tới NSNN. Tác động này đến từ hai hướng: Một là, các FTA này đặt ra yêu cầu tương đối cao (cao hơn các FTA khác) về xóa bỏ thuế nhập khẩu. Cụ thể là, trong TPP, tỷ lệ xóa bỏ thuế nhập khẩu có thể lên tới 100% và yêu cầu này được thực hiện ngay khi hiệp định có hiệu lực. Hai là, TPP đặt ra yêu cầu xóa bỏ thuế xuất khẩu vì coi đây là một hình thức trợ cấp gián tiếp cho sản xuất trong nước (giúp sản xuất trong nước mua được nguyên liệu với giá rẻ hơn giá thị trường thế giới) nên sẽ có tác động lớn hơn các FTA khác đã ký.
Nếu xét kỹ, có thể thấy trong số các nước tham gia TPP, Việt Nam đã có quan hệ FTA với 7/12 nước, vì vậy, thuế nhập khẩu đã được giảm cho các nước này theo FTA đã ký trước đây nên dự kiến tác động tăng thêm của TPP lên nguồn thu từ hàng nhập khẩu là tương đối nhỏ. Với bốn nước còn lại, chỉ có Hoa Kỳ và Ca-na-đa, Việt Nam có kim ngạch nhập khẩu đáng kể nhưng cơ cấu nhập khẩu từ hai thị trường này lại thiên về các mặt hàng có thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất thấp nên dự kiến tác động giảm thu cũng không lớn. Về thuế xuất khẩu, do nước ta là nước đang phát triển, tỷ trọng thu từ thuế xuất nhập khẩu trong tổng thu NSNN tuy đã giảm rất mạnh so với năm 2009 nhưng vẫn còn tương đối lớn nên vẫn phải đưa ra lộ trình phù hợp, kiểm soát được tốc độ giảm thu, không gây đột biến nguồn thu.
Đồng quan điểm này, Viện trưởng Chiến lược và chính sách tài chính (Bộ Tài chính) Nguyễn Viết Lợi cho biết, việc cắt giảm gần như 100% dòng thuế theo cam kết của TPP sẽ dẫn tới giảm nguồn thu NSNN đối với hàng hóa nhập khẩu, nhưng tác động giảm này không lớn cho nên về cơ bản không ảnh hưởng nhiều đến thu NSNN. Trong giai đoạn 2015-2018, phần lớn các FTA mà Việt Nam đã ký kết bước vào giai đoạn cắt giảm thuế và xóa bỏ thuế quan sâu (hiệp định ATIGA, hiệp định ACFTA, hiệp định AKFTA) trong khi đó cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là từ các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, vì vậy, mức ảnh hưởng tới thu NSNN không nhiều. Ngược lại, việc cắt giảm thuế quan trong TPP cũng như trong các FTA sẽ khiến cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước đối tác sẽ gia tăng, đồng nghĩa số thu từ thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu cũng như hàng hóa sản xuất trong nước cũng tăng theo. Ngoài ra, chi phí sản xuất của DN giảm cũng sẽ tác động tích cực đến nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Bảo đảm tính bền vững của thu NSNN
Tại cuộc họp báo chuyên đề về tác động của TPP đối với lĩnh vực tài chính do Bộ Tài chính tổ chức mới đây, Vụ trưởng Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính) Vũ Nhữ Thăng cho biết, tác động của TPP là đa chiều và có sự đan xen lẫn nhau, vì vậy cần có cái nhìn tổng thể. Thực tế cho thấy, thực hiện các cam kết trong ASEAN, WTO và các FTA khác, số thu ngân sách liên quan đến thuế xuất nhập khẩu đang có xu hướng giảm trong các năm gần đây. Không nằm ngoài quy luật đó, khi tham gia TPP, tỷ trọng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu có thể giảm tiếp, nhưng số thu tuyệt đối sẽ vẫn tăng. Nguyên nhân là bởi mỗi hiệp định đều có tác động đa chiều làm dịch chuyển thị trường xuất nhập khẩu, do đó nguồn thu ngân sách có thể giảm ở thị trường này nhưng lại tăng ở thị trường khác. Mặt khác, thuế nhập khẩu giảm sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, qua đó khuyến khích sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó, tuy thuế xuất nhập khẩu giảm, nhưng các khoản thu khác từ hàng hóa xuất nhập khẩu như thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt vẫn được duy trì nên sẽ bù đắp phần nào. Bộ Tài chính cũng đã kiến nghị Chính phủ có những điều chỉnh chính sách liên quan đến các sắc thuế GTGT, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp... nhằm điều chỉnh cơ cấu thu và tỷ lệ thu hợp lý, bảo đảm tính bền vững của thu NSNN. Việc hướng đến đặt trọng tâm thu ngân sách vào số thu nội địa cũng đã được điều chỉnh. Theo Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2015, thu nội địa chiếm 70% thu NSNN và hướng đến năm 2018 là 80%. Theo tính toán, năm 2015, thu nội địa đã chiếm 74% tổng thu NSNN.
Như vậy, áp lực giảm thu NSNN sẽ diễn ra khi các hiệp định có hiệu lực và đi vào giai đoạn cắt giảm thuế sâu, nhưng quy mô thu NSNN từ xuất nhập khẩu vẫn ổn định trong ngắn hạn. "Rõ ràng, ngoài tác động về thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu thì việc giảm thuế trong TPP còn tác động tích cực tới thu nội địa từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đó là điều mà chúng ta hướng đến để có nguồn thu NSNN thật sự bền vững", Vụ trưởng Vũ Nhữ Thăng nói.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường TPP như nông sản, thủy sản, dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện, điện tử, cao-su... sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi TPP có hiệu lực hoặc sau ba đến năm năm.
Theo_Báo Nhân Dân
TP HCM lo thiếu nước vì dự án lấn sông Đồng Nai Lo ngại việc lấn sông Đồng Nai làm dự án có thể làm thay đổi dòng chảy, ảnh hưởng đến việc khai thác nước cung cấp cho thành phố, UBND TP HCM đề nghị tỉnh này xem xét tác động môi trường của dự án. Toàn cảnh dự án lấn sông nhìn từ trên cao. Ảnh: Hoàng Trường. Trong văn bản gửi Ủy...