Ghé thăm “đại bản doanh” của học sinh vùng biên
Nhìn từ xa, những túp lều nằm chơ vơ bên những sườn núi với vẻ hoang tàn, chỉ đủ cho vài người chui ra chui vào, không ai nghĩ đó là những túp lều trọ học của hàng trăm học sinh các bản vùng sâu của xã Mường Lý (huyện Mường Lát, Thanh Hóa).
Lều tranh nuôi ước mơ con chữ
Mường Lát là một huyện vùng biên phía Tây của tỉnh Thanh Hóa. Nếu đi bằng xe máy từ thành phố Thanh Hóa lên đến huyện Mường Lát cũng mất đứt một ngày trời với con đường đầy đèo dốc. Đó là chưa kể từ trung tâm các xã vào đến những bản làng xa xôi nhất cũng mất chừng 40 – 50 km đường rừng. Trong chuyến công tác lên huyện vùng cao Mường Lát, chúng tôi có dịp ghé vào xã Mường Lý, là một xã giáp biên của huyện Mường Lát. Cuộc sống hàng ngày của bà con nơi đây còn nhiều khó khăn nên việc học hành của con em họ cũng ít khi được quan tâm. Có những bản cách trung tâm xã khoảng 50km nên dù có nỗ lực đến mấy thì các em học sinh cũng không thể hàng ngày đến trường theo học chữ.
Những căn lều này là nơi trọ học của hàng trăm học sinh Trường THCS Mường Lý.
Từ thị trấn Mường Lát ngược lên xã Mường Lý, đến trung tâm xã từ xa có thể nhìn thấy hàng chục túp lều tranh nằm nép mình bên những sườn núi. Đấy là “đại bản doanh” của hàng trăm học sinh Trường THCS xã Mường Lý. Những căn lều tạm bợ được dựng bằng tre, luồng và lợp mái tranh, đứng ngoài có thể nhìn xuyên thấu vào trong qua “bức tường phên”. Nơi đây, địa hình vốn phức tạp, nhà lại xa trường, có những em học sinh ở cách xa điểm trường chính hàng chục km, để đến được trường học phải đi bộ mất cả nửa ngày trời. Vì muốn được học chữ, không còn cách nào khác là các em phải dựng lều trọ học ngay cạnh trường. Cứ vào đầu năm học, bố mẹ các em phải vào rừng chặt tre, luồng và tìm vật liệu ra sửa sang lều bạt cho con trọ học. Nhìn những túp lều không ai nghĩ đó là nơi ở của các em học sinh trong những ngày đi học. Hầu hết các em học sinh đang độ t.uổi mới lớn, ăn chưa no, lo chưa đến nhưng vì để biết cái chữ mà các em đã phải tự lực, tự lo cho bản thân mình từ miếng ăn đến giấc ngủ và việc học tập.
Gặp chúng tôi, em Giàng A Chu, học sinh lớp 7A ở bản Trung Thắng vẻ mặt ngơ ngác cứ chăng mắt nhìn khi nghe chúng tôi hỏi chuyện. Nhà Chu cách trường hơn 10 km, cũng như hàng trăm học sinh khác, Chu ra đây dựng lều trọ học. Căn lều tạm bợ được bố mẹ dựng từ năm em vào lớp 6, đến nay đã bắt đầu ọp ẹp. Gần hai năm qua, căn lều đã che mưa che nắng trong những ngày Chu theo học tại trường. Ngày nắng không sao, nhưng mỗi khi trời mưa xuống thì trong cũng như ngoài, Chu chỉ còn biết co ro chịu ướt cả quần áo, sách vở.
Ngày nắng còn đỡ, ngày mưa và những ngày giá rét, các em phải gồng mình chống chọi để mong tìm con chữ.
Hầu hết học sinh nơi đây đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, ngoài số t.iền hỗ trợ hàng tháng của Nhà nước dành cho học sinh miền núi, thì hầu hết các em phải tự lo cho sinh hoạt riêng của mình. Hàng ngày ngoài một buổi đến trường, còn lại các em tranh thủ vào rừng chặt nứa, hái măng…về bán để k.iếm t.iền đong gạo ăn và mua sách vở. “Nhà em ở xa lắm, không đi bộ được, em thích đi học thôi, làm nương, làm rẫy vất vả lắm. Bố mẹ nghèo lắm không có t.iền cho em. Đi học nhớ nhà, nhớ bố mẹ lắm, nhưng lâu lâu mới về thăm nhà một lần. Nhiều lần phải nhịn đói không có gì ăn cả. Em muốn đi học để trở thành thầy giáo về dạy ở bản mình”, em Giàng A Chu rụt rè tâm sự.
Về phía nhà trường tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng tạo điều kiện nhất định để chăm lo cho các em học sinh. Vấn đề an ninh tại các khu nhà trọ của học sinh được nhà trường phối hợp với địa phương đảm bảo. Vất vả nhất đối với giáo viên nơi đây là sau các kỳ nghỉ, học sinh thường nghỉ rất dài và có nhiều em vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên thường bỏ học. Những lần như thế các giáo viên trong trường lại phải băng rừng, lội suối đến tận nhà để động viên các em trở lại lớp.
Gian nan những tháng ngày trọ học
Thầy giáo Mai Văn Dũng – Hiệu trưởng Trường THCS Mường Lý chia sẻ: “Thương các em lắm, nhiều hôm mưa gió lạnh, nhưng các giáo viên cũng đảo một vòng xem các em sinh hoạt như thế nào. Hiện nay hai nhà bán trú với 20 phòng học đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, nhưng mỗi phòng cũng chỉ ở được 8 em nên không thể giải quyết hết nhu cầu cho các em học sinh của nhà trường. Hiện còn gần 100 em phải dựng lều lán trên các sườn đồi làm chỗ trọ học”.
Đây là nơi ở của hàng trăm học sinh.
Video đang HOT
Ngồi trong căn lều trò chuyện với các em học sinh, ngoài trời những cơn gió rít lên liên hồi đ.ập vào vách nứa rung lên cành cạch, gió lùa qua khe vách từng đợt, ngồi trong cũng cảm nhận được cái lạnh se sắt. Những manh áo mỏng càng khiến các em run lên vì rét. Để đối phó với cái lạnh mùa đông nơi miền sơn cước, nhiều em ghép chung lại một lều để ôm nhau ngủ cho ấm. “Mùa đông lạnh lắm, tối không ngủ được, nhà nghèo không có t.iền mua chăn, quần áo ấm mặc”, em Thào Thị Giống ở bản Muống 1, học sinh lớp 8A nói.
Nhìn những căn lều đã cũ nát, hở trước, trống sau, bên trong không có tài sản gì ngoài chiếc giường, gọi là giường cho sang chứ thực ra nó được kê bằng những thân tre, ít nan nứa đ.ập bẹp ghép lại với nhau làm chiếu. Trong góc lều là nơi đặt bếp chỉ vài cái nồi con nằm chỏng chơ trông thật lãnh lẽo. Gần như lương thực hàng ngày không có một thứ để giữ trữ sẵn cả.
Chúng tôi ghé qua thăm căn lều của em Vàng A Pó khi em đang nấu nồi cơm vừa sôi trên bếp. Pó vừa về nhà lên nên có gạo nấu cơm cho mấy bạn cùng ăn. Mấy cọng rau cải mà Pó mang từ nhà lên được bỏ vào nồi nước đun sôi lên làm canh. Thấy chúng tôi bước vào, các em ngơ ngác ngước nhìn với ánh mắt lạ lẫm. Bữa cơm trưa được nấu xong, nhưng chưa thấy các em dọn ra ăn. Qua câu chuyện mới biết các em đang ngồi đợi bạn về ăn cùng. “Chơ nó chưa về, đang đợi nó về để ăn cơm cùng”, Pó giải thích. Một lúc sau, Chơ vừa chạy về tới lều, chỉ trong chớp mắt cả mấy em đã bê nồi cơm lên giường múc ăn một cách ngon lành. Nhìn vào mâm cơm trưa của ba em chỉ có bát nước mắm và nồi canh loãng với tí lá rau cải mà chúng tôi thấy cay cay sống mũi, gần như cả năm chẳng mấy khi các em biết đến mùi thịt cá. Đang ngồi tâm sự dở câu chuyện, quay sang nhìn thì nồi cơm đã hết sạch.
Vàng A Pó (áo trắng) đang nấu bữa cơm trưa.
Hàng ngày, học sinh nơi đây thiếu cái ăn, cái mặc, chỗ ở thì nhếch nhác đã đành, còn thiếu cả nước sinh hoạt. Mỗi khi cần nước sinh hoạt, các em phải đi bộ hàng trăm mét xuống các khe nước dưới chân núi múc từng can về làm nước sinh hoạt. “Mỗi lần đi múc nước mệt lắm, mùa nắng thì có thể xuống suối tắm được chứ mùa đông nước suối lạnh lắm không tắm được. Đường xa nên chỉ lấy được ít nước thôi, không xách nổi”, em Thào Thị Soa tâm sự.
Ngồi trong lều có thể nhìn xuyên ra ngoài.
Chia sẻ với chúng tôi, ông Đinh Công Đại – Chủ tịch UBND xã Mường Lý cho biết: “Trên địa bàn xã có bốn dân tộc: Mông, Mường, Thái, Kinh sinh sống, trong đó người Mông chiếm đại đa số. Tỷ lệ hộ đói nghèo của xã còn chiếm hơn 70%, cao nhất tỉnh. Ở đây bà con thiếu đất canh tác lúa nước, cả xã chỉ có 6 ha ruộng nước. Chủ yếu bà con trồng lúa nương, trồng ngô, trồng sắn mỗi năm cũng chỉ được một vụ mà lại phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, thường hay mất mùa nên thiếu lương thực triền miên”.
Toàn xã Mường Lý hiện có hơn 300 em học sinh cấp tiểu học, THCS phải dựng lều lán quanh khu vực trường để trọ học. Do điều kiện còn nhiều khó khăn, nên phần lớn số học sinh của xã chỉ học hết THCS, một số ít học hết bậc THPT là bỏ học đi làm ăn xa, hay ở nhà lên nương rẫy phụ giúp gia đình. Mới đây, Nhà nước đã đầu tư gần 6 tỷ đồng xây dựng Khu bán trú dân nuôi dành cho học sinh Trường THCS Mường Lý, công trình được đưa vào sử dụng từ đầu năm học 2010 – 2011 là niềm vui đối với nhiều em học sinh nơi đây.
Rời Mường Lý, phía sau, hình ảnh những túp lều tranh nhếch nhác cứ xa dần rồi khuất lấp sau những dãy núi cao. Trời về chiều, cái lạnh nơi miền sơn cước như cắt da cắt thịt, suốt quãng đường dài, trong tâm trí chúng tôi cứ hiện lên hình ảnh về “đại bản doanh” của những học sinh nơi xã vùng biên Mường Lý.
Duy Tuyên – Ngọc Anh
Theo dân trí
"Tôi là cô giáo sida"
Cô giáo miền sơn cước đã thẳng thắn tuyên bố như vậy mặc cho búa rìu dư luận có giáng xuống đầu mình và sau nhiều lần tìm đến cái c.hết không thành.
Bây giờ thì cả huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) đều biết cô giáo Lương Thị Dung ở trường tiểu học và THCS Nhân Lý bị nhiễm HIV. Nhưng họ không kỳ thị, ngược lại họ phục cô ở sự dũng cảm hiếm có.
Kỳ thị là rào cản lớn nhất của tình người.
Ngày cưới không có hoa
Từ thị trấn Chiêm Hoá, chúng tôi leo ngược những con dốc mù sương mới đến được bản Hạ Đồng, nơi cô giáo Lương Thị Dung đang ở. Hạ Đồng mùa lạnh càng như buồn hơn, những cơn gió từ dòng sông Lô thổi vào càng làm cho bản nghèo thêm tiêu điều, xơ xác.
Nhưng không khó để tìm được nhà cô Dung. Ngôi nhà cấp 4 bé tin hin nằm nép dưới những dãy núi đồ sộ là nơi ở của ba mẹ con suốt những năm tháng đen tối vừa rồi. Đó cũng từng là ngôi nhà hạnh phúc mà cô đã được tận hưởng trong khoảng thời gian ngắn ngủi bên người chồng.
Cô Dung sinh năm 1972, cô không phải người Chiêm Hoá bản địa. Cô quê gốc Hoài Đức, Hà Tây cũ, theo gia đình lên rừng theo chính sách kinh tế mới từ những năm 1978, thế rồi nhập gia tuỳ tục, cô coi mình là sơn nữ, một cô sơn nữ nhan sắc, bông lan rừng ngát hương.
Gái thuyền quyên gặp trai anh hùng, chồng cô là Trần Văn Thành người Hải Phòng. Mãi sau này, cô Dung mới biết chồng mình là một thiếu gia của một gia đình giàu có nhất nhì thành phố Cảng. Thành lang bạt lên Chiêm Hoá, gặp "đoá lan rừng" mới kết thành duyên chồng vợ.
Ảnh cưới duy nhất của cô Dung còn sót lại.
Cô Dung bảo: "Chúng tôi gặp nhau lần đầu đã biết là của nhau rồi. Đám cưới được tổ chức một cách nhanh gọn nhất. Ngày cưới của tôi không có hoa, cũng chẳng có nhiều bạn bè, nhưng đó là giây phút mà tôi cảm thấy thật hạnh phúc, cảm giác ấy tôi không quên được".
Tình yêu của họ đã cho ra đời 2 cô con gái bé bỏng xinh đẹp là Trần Minh Anh và Trần Phương Anh. Hiện nay, cháu Minh Anh đang học lớp 5, cháu Phương Anh đang học lớp 4. Cả hai đều học rất giỏi, năm nào cũng được đi thi học sinh giỏi cấp huyện và tỉnh.
Cô giáo Dung và 2 con gái.
Những ngày "trời sập"
Đôi vợ chồng "hạnh phúc nhất quả đất" sống với nhau vừa tròn 2 năm thì duyên phận đôi ngả. Cô Dung bảo vậy, nhưng sự đôi ngả ở đây không phải li thân hay li dị, mà đau đớn hơn khi anh Thành ốm nặng rồi qua đời.
Cô như c.hết lặng bởi khi ấy đang mang thai cháu Phương Anh. Đứa con chưa biết mặt cha, hạnh phúc mà họ dành cho nhau lại quá ngắn ngủi ở giữa vùng đất hoang sơ ven dòng Lô giang này. Cô ngất đi rồi tỉnh lại bao nhiêu lần, chỉ ước sao đó là một cơn ác mộng.
Gia đình nhà chồng chính là chỗ dựa và là niềm động viên an ủi lớn nhất với cô lúc này. Tuy nhiên, cô luôn thắc mắc không biết chồng mình qua đời vì bệnh gì? Hỏi bác sĩ, bác sĩ bảo đã đưa giấy khám nghiệm cho gia đình nhà chồng. Mẹ chồng cô cũng đưa ra một cái giấy, kết luận anh bị ung thư.
Cô ở vậy nuôi con giữa độ t.uổi "chín" nhất của nhan sắc lan rừng, bao nhiêu người đàn ông đến với cô, cô chối từ thẳng thừng. Nấm mộ chồng cô ngày nào cũng đầy ắp hoa, quả và những nén hương trầm.
Chỉ bảo cho học sinh từng bài học.
Vào một ngày giữa năm 2009, cô Dung ốm nặng, nằm liệt giường và sút đến 20kg. Bệnh viện thông báo cô bị nhiễm HIV, cô như không tin vào tai mình. "Trời sập" giữa lúc con cô còn nhỏ, niềm tin vào tương lai vẫn tràn đầy. Cô bảo: "Nghe tin này khác nào bị toà tuyên án t.ử h.ình. Tôi sẽ c.hết, c.hết nhục nhã giữa những kỳ thị người đời".
Lúc này, gia đình nhà chồng mới thành thật với cô là anh Thành cũng bị nhiễm HIV, anh bị c.hết vì căn bệnh thế kỷ này. Nhưng sợ điều tiếng, lại lo cho tương lai mẹ con cô nên họ đã nhờ bác sĩ cho một cái giấy kết luận hoàn toàn khác.
Qua lời kể của mẹ chồng, cô mới biết chồng mình từng là đại ca khét tiếng ăn chơi ở đất Cảng. Anh là con nghiện nặng đô nhất Hải Phòng, nhưng anh cũng là tấm gương tự cai nghiện thành công, anh phải trả giá cho những tháng ngày sa ngã và trác táng.
Những tháng ngày sau này, mới thực sự là ác mộng với cô giáo Lương Thị Dung khi với người dân vùng sơn cước Chiêm Hoá, HIV còn kinh tởm hơn gấp trăm vạn lần bệnh hủi. Cô vật vã trong đau đớn thể xác và tâm hồn, với cô sống không bằng c.hết.
Cô giáo Dung soạn bài trước giờ lên lớp.
Đứng dậy, ngẩng cao đầu mà bước
Cô không còn tâm trí đến trường, thế nhưng ngày nào cô đến trường là ngày ấy học sinh bỏ về hết. Phụ huynh cũng từng can thiệp đến tận cấp trên không cho cô dạy học vì sợ con em mình sẽ bị nhiễm. Cô Dung tâm sự: "Không phải một lần mà nhiều lần tôi đã tìm đến lá ngón để c.hết. Nhưng mỗi lần đưa lá vào miệng lại phải nhả ra vì thương học sinh, các em như con của mình, không đành lòng để chết".
Trong lúc này, cô giáo Trần Kim Dung, Hiệu trưởng trường tiểu học và THCS Nhân Lý và là người bạn cùng tên đã đến bên cô động viên và ra sức thuyết phục phụ huynh học sinh hiểu hơn về căn bệnh HIV. Nhờ thế mà người dân bản địa cũng ít kỳ thị và tỏ ra thông cảm hơn.
Cô Dung lại được đến trường, được cầm tay nắn chữ cho học sinh thân yêu của mình. Cô bảo: "Dù có chuyện gì xảy ra tôi cũng phải ngẩng cao đầu mà bước đi trong giông bão. Tôi đang phải điều trị bằng thuốc ARV với phác đồ bậc 2 (bậc nặng - PV), nhưng chỉ có niềm tin và hy vọng mới là phương thuốc hữu hiệu nhất".
Chính vì có niềm tin nên vừa qua, cô Lương Thị Dung đã dũng cảm tuyên bố với cả huyện Chiêm Hoá rằng mình bị sida. Cô chia sẻ: "HIV không đáng sợ, đáng sợ nhất là mất niềm tin và mất sự cảm thông từ mọi người. Nhưng nếu được mọi người dù chỉ nhìn bằng ánh mắt bình thường nhất cũng đã hơn vạn lời khuyên bảo rồi".
Theo 24h
Xót xa mẹ liệt sỹ ở trong túp lều xiêu vẹo Cứ mòn mỏi chờ đợi để được xóa nhà tranh tre dột nát, có nơi thờ tự đứa con trai đã hi sinh xương m.áu cho tổ quốc, nhưng hết năm này đến năm khác, ước nguyện của mẹ liệt sĩ gần 90 t.uổi ở xã Thạch Lâm huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) vẫn chưa thành. "Sợ mẹ khó chờ" Trở lại thăm...