Gặp người mơ thấy rồng thần ở ngôi miếu thiêng nghe kể chuyện đi tìm kho báu
Chúng tôi được nghe truyền miệng về câu chuyện trên đã lâu, tò mò vì trong đó có “giấc mơ”, có “rồng thần”, có “lãnh địa thiêng” và đặc biệt là có “kho báu” nhưng mãi đến tận bây giờ mới có cơ hội được gặp đầy đủ những con người xuất hiện trong câu chuyện thần bí đó. Chuyện là có một ngôi miếu thiêng ở xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa – nơi mà các nghĩa sĩ Lam Sơn khi bị thương được đưa vào chữa trị; đây cũng là nơi đồn rằng có một kho báu và những câu chuyện kỳ bí…
Nhân chứng sống và cuộc di cư vào miếu thiêng
Ông Nguyễn Thanh Lâm, Phó Chủ tịch xã Ngọc Phụng cho biết, ngôi miếu nằm trên địa bàn xã, đã từng là nơi các tướng lĩnh, binh sĩ nghĩa quân Lam Sơn được đưa vào để chữa trị vết thương nên rất linh thiêng. Dân trong làng, ngoài xã sau khi chứng kiến nhiều việc kỳ lạ xảy ra xung quanh ngôi miếu thì chẳng còn ai dám “mạo phạm”. Dẫn chúng tôi đến nhà ông Nguyễn Văn Chung, thôn Xuân Thắng, xã Ngọc Phụng, ông Nguyễn Thanh Lâm vừa đi vừa kể: “Về những câu chuyện ở ngôi miếu, ông Chung là người nắm rõ nhất. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, gia đình ông Chung lên làm kinh tế mới ở thôn Xuân Thắng, sau vì quá khó khăn, làm lụng mãi mà không cất nổi một căn nhà để ở nên gia đình ông Chung đã phải “xin” thần thánh cho ở nhờ, và sống gần 8 năm tại đây”.
Ông Nguyễn Văn Chung có trí nhớ cực tốt, ông kể về câu chuyện thời thanh niên cách đây gần 45 năm mà cứ như mới xảy ra ngày hôm qua – “Ngày đó tôi mới chưa đến 20 tuổi thì gia đình chuyển đến xã Ngọc Phụng làm ở hợp tác xã chuyên trồng sắn. Lúc đó, làng Xuân Thắng đang được gọi là làng Phụng Dưỡng. Ở đó, chỉ có đồi sắn và rừng cây bạt ngàn, dân cư còn thưa thớt, mang tiếng là hàng xóm nhưng cách nhau cả cây số, mấy quả đồi. Thời gian trôi đi gia đình tôi với 7 người cứ lay lắt sống trong mái lều dựng tạm, ăn còn chẳng đủ no nói gì đến chuyện xây nhà, dựng cửa. Lúc đó, đã có người “gợi ý” với bố tôi rằng: “Hay là vào miếu hoang ở tạm”. Thú thật ban đầu những câu chuyện truyền tai nhau về sự kỳ bí của ngôi miếu khiến bố tôi lo ngại. Nhưng suy đi tính lại bố tôi gọi cả nhà lại và nói: “Mình không có nhà, chắc phải ở nhờ ngôi miếu. Miếu là miếu thiêng, gia đình trước nay ăn ở hiền lành, chẳng làm hại ai, lại có lòng thành, nay khó khăn quá xin tạm lánh vào miếu ở nhờ chắc thần thánh không nỡ trách phạt”…
Giấc mơ rồng thần vào những đêm rằm
Xã Ngọc Phụng 40 năm trước rừng rậm bát ngát, nhà thưa người ít. Cuộc sống của người dân chỉ sớm khuya quanh quẩn với ruộng đồng. Vàng bạc, châu báu là những khái niệm xa xỉ, có tìm đỏ mắt khắp xã cũng chẳng có mấy người đã từng một lần được trông thấy vàng. Thế rồi, câu chuyện về kho báu bỗng dưng xuất hiện, nó kỳ lạ, bí hiểm và dần khiến cuộc sống của những người dân nghèo bị xáo trộn hoàn toàn. Nhắc lại câu chuyện đã qua gần nửa thế kỷ, ông Nguyễn Thanh Lâm cắt ngang: “Câu chuyện về kho báu như một kỷ niệm của thời xa vãng. Đến bây giờ trong ký ức của người dân thế hệ chúng tôi vẫn còn nhớ như in buổi chiều hè nắng như đổ lửa tháng 6-1972. Lúc đó tôi đang là cậu học sinh cấp 2 cũng hùa theo đám người nhốn nháo đi xem kho báu và trông thấy người ta nhặt được những chiếc đai quần, những miếng lá lấp loáng ánh vàng…”. Cũng theo ông Lâm, chuyện về kho báu thật dài, nhưng phải kể đến giấc mơ kỳ lạ của ông Chung.
Trở lại câu chuyện của gia đình ông Chung, sau quyết định của bố, cả gia đình ông Chung vào miếu ở. Và cũng từ đó ông Chung đã gặp những câu chuyện kỳ lạ mà đến bây giờ ông vẫn không lý giải nổi. Ông Chung kể lại: “Trước đó, khoảng những năm 1970, 1971, gia đình tôi vẫn sống trong ngôi miếu thiêng. Điều nhớ nhất của tôi ở ngôi miếu thiêng có bức phù điêu 2 con rồng được đắp nổi trên bức tường ở một bên miếu. Hai con rồng được chạm đối diện nhau, có đầu hướng ra phía ngoài, nhìn về cùng một phía. Ban đầu, tôi chỉ ấn tượng với bức phù điêu đó vì nó được chạm khắc hết sức tinh xảo và đẹp mắt. Nhưng vào một đêm tôi mơ thấy một con rồng giống hệt con rồng trên bức tường. Con rồng tỏa ánh hào quang sáng rực, bay lượn trên các ngọn núi, nhìn về hướng ngôi miếu rồi bỗng chốc bay thẳng lên trời chìm vào làn mây trắng. Giấc mơ kỳ lạ đó đến với tôi rất nhiều lần. Ban đầu, tôi cho đó là chuyện bình thường và nghĩ rằng có mơ cũng chỉ vì thấy đôi rồng trên bức phù điêu thường xuyên nên bị ám ảnh. Nhưng tôi chợt nhận ra điều trùng hợp là con rồng đó chỉ xuất hiện trong giấc mơ của tôi vào những đêm rằm, trăng sáng vằng vặc”.
Chỉ đường tìm kho báu
Theo lời kể của ông Chung thì như biết trước rằng “con rồng sẽ xuất hiện, sẽ bay lượn qua những ngọn núi” thì y như rằng vào một đêm rằm tháng 3-1972: “Tôi thấy mình xuất hiện trong giấc mơ, đôi mắt hướng về phía con rồng một cách hiếu kỳ. Con rồng bay lượn rồi bỗng dưng quay xuống, “hạ cánh” ngay trước mặt tôi. Chưa kịp hoảng hồn thì rồng thần đã cất giọng văng vẳng: Ta đang đưa mắt về hướng kho báu, ngươi cứ theo hướng nhìn của ta mà đi tìm… Vừa cất lời xong con rồng bay vút lên không trung biến mất trong làn mây. Tôi sững người bật dậy, mồ hôi vã đầm đìa và đi tìm cây đèn dầu rồi đi ra ngoài, màn đêm vẫn còn buông, trăng vẫn sáng rực khắp ngọn núi. Tôi tiến sát đến chỗ bức phù điêu hình rồng, đôi mắt hai con rồng hướng về phía chân đồi cách ngôi miếu khoảng 100m. Nhưng nơi đây chỉ là một bãi đất cây cối mọc um tùm không có gì nổi bật, tôi tạm quên “giấc mơ”, “con rồng” rồi trở vào ngủ tiếp. Mấy ngày sau ý nghĩ về sự xuất hiện của “con rồng” cứ bám riết tâm trí và tôi đem câu chuyện kể với những người trong gia đình, người thân quen trong làng nhưng đều bị phản bác rằng: Đó chỉ là giấc mơ!…
Video đang HOT
Rồi cuộc sống khó khăn, nai lưng sớm khuya với đồng ruộng, củ khoai, củ sắn đã nhấn chìm giấc mơ nhuốm màu sắc tâm linh “rồng thần hiển linh chỉ đường tìm kho báu” trong suy nghĩ của ông Chung. Nhưng rồi một sự kiện đã làm thay đổi tất cả, ông Chung kể tiếp: “Một sự việc có thật, tai nghe, mắt chứng kiến đã khiến nhiều người trong làng xôn xao. Đó là tháng 6-1972, chỉ cách giấc mơ “rồng thần hiển linh chỉ đường tìm kho báu” của tôi đúng 3 tháng đã xảy ra một chuyện là con đập bãi sậy cung cấp nước tưới tiêu cho toàn xã bị sập, chính quyền phải điều máy ủi, máy kéo đến để lấy đất ở nơi khác về đắp đập – đó cũng chính là điểm con rồng chỉ hướng cho tôi trong giấc mơ – và cũng chính chỗ đó kho báu được tìm thấy”.
Thực hư về kho báu?
…”Thì phải tìm gặp ông Trần Đa Lộc, Bí thư thị trấn Thường Xuân” – ông Nguyễn Thanh Lâm cho chúng tôi biết. Theo ông Lâm thì sở dĩ ông Lộc biết vì ngày đó ông Lộc là một trong những người may mắn đào được vàng. Ông Trần Đa Lộc nhớ lại: “Lúc đó tầm 3 giờ chiều, trời nắng chang chang, những con gió Lào thổi về nóng như đổ lửa, đồng ngô khô xác xơ. Khi ấy khu đất có con đập bị sập đã bị máy xúc, máy ủi cào sạch đất trên bề mặt chỉ còn trơ lại lớp đất đen lồi lõm. Là cậu học sinh cấp 2 đang trên đường đi làm cỏ ngô thì thấy nhiều người trong xã đang cầm cuốc chạy về phía con đập; hỏi ra mới biết mọi người đang đi đào kho báu. Nhỏ tuổi nên tò mò, tôi cùng chạy theo để xem thì thấy người cuốc, người đào sâu xuống lớp đất nhưng chẳng thấy dấu tích gì thì mọi người lần lượt bỏ về. Duy nhất lúc đó chỉ còn mỗi một người vẫn tiếp tục đào thì tôi dành cuốc và bảo: “Để cháu đào cho”. Đào thêm thì chúng tôi thấy hết lớp đất và trơ ra lớp vôi và than cục, tiếp tục đào thì phát hiện thấy vài lá kim loại màu vàng mỏng có khắc hoa văn hình hạc, rồng hơi xỉn màu to bằng bàn tay. Lúc đó trong lòng chúng tôi mừng thầm vì nghĩ đã tìm thấy kho báu thế là hùng hục đào tiếp thì thấy nhiều hơn những tấm lá vàng xếp sát nhau.
Chuyện 2 người, 1 già 1 trẻ chúng tôi đào được những lá vàng được nhanh chóng lan truyền trong ngôi làng nhỏ bé và chỉ trong 1 buổi chiều khu đất đã bị xới tan hoang. Đến khi nhiều người nhặt được vàng lá, vàng thỏi, hạt xoàn, chiếc đai quần và những tấm vải thêu đính đá quý… thì chính quyền địa phương đến quây lại khu đất không cho người dân vào trong. Lúc này tôi chỉ còn biết đứng ngoài khu đất để xem thì thấy họ đào được 3 cái am rộng chừng 20m2 hướng về phía Đông. Dưới mỗi cái am là một lớp than dày khoảng 40cm. Nhiều lời đồn đoán rằng đây là khu mộ cổ nên tôi thấy người ta không đào nữa. Và theo nhiều người lớn trong làng kể lại thì sau đó dù tiếp tục đào nhưng không còn thu được gì. Ngày hôm sau người dân trong xã nhận được thông báo những ai nhặt được vàng thì phải lên nộp cho chính quyền vì đó là tài sản của Nhà nước. Tôi cùng nhiều người khác đã mang vàng lên nộp”…
Câu chuyện đổi đời và tai ương
Ông Lộc kể rằng nhiều người đã mang vàng nên nộp nhưng chắc chắn là vẫn còn những người không nộp hết. Bởi như chính ông còn giữ lại đủ để mua chiếc đài radio hết 8 chỉ vàng, 1 chiếc xe đạp Liên Xô gần 1 cây vàng. Ông Lộc bảo trong những người nhặt được vàng ngày hôm đó đến nay còn sống có ông Nguyễn Đình Sự. Năm nay cũng đã ngoài 80 tuổi, trong căn nhà tuềnh toàng, ông Sự nhớ lại: “Hôm đó tin tìm thấy kho báu loan truyền rất nhanh, với giấc mơ tìm vận đổi đời tôi cùng 2 thằng con trai cũng chạy thục mạng ra khu đất con đập bãi sậy thì nhặt được một ít hạt xoàn và vàng. Ban đầu, nhiều người mang vàng về nhà thì sợ sệt vì cho rằng kho báu có yểm bùa thì sớm muộn gì cũng mất và gặp phải những tai ương nhưng may mắn là không có chuyện gì không may ập đến trừ trường hợp…”. Theo ông Sự thì đó là câu chuyện của ông Nguyễn Viết Hậu. Không đi nhặt vàng như hầu hết mọi người, không biết nghe đâu mà ông Hậu lại phá 2 bức tượng ở trong ngôi miếu mà gia đình ông Chung ở để tìm vàng. Không biết ông Hậu có tìm thấy vàng hay không nhưng đang từ một nông dân nghèo ông Hậu bỗng dưng… đổi đời bằng việc xây nhà ngang, bếp dọc, tiêu pha rủng rỉnh. Đến giờ người ta vẫn đồn về việc nhà ông Hậu bị dính tai ương khi con cái ốm đau, tài sản dần tiêu tan phải bán nhà bỏ đi nơi khác sinh sống!…
Trong khi kể câu chuyện về “giấc mơ”, “kho báu” với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Chung vẫn tỏ ra hối tiếc vì “biết đâu đấy sẽ đổi đời”. Suy nghĩ của ông Chung không lạ; bởi đến nay có bao nhiêu truyền thuyết về những kho báu của người xưa thì có rất nhiều người đã lao vào cuộc tìm kiếm không có điểm dừng. Luôn tin chắc kho báu là có thật, họ sẵn sàng đổ hết cả của cải, thời gian để đào xới lòng đất, lòng biển mà kết quả nhìn thấy là nhiều gia đình tan nát, bỏ phí cả cuộc đời để theo đuổi một giấc mộng viển vông không có hồi kết.
Theo ANTD
Vì sao ngôi chùa nằm trên xương con rồng phải đổi cổng tới 3 lần?
Nằm trên đỉnh ngọn núi có địa hình rất đẹp, ngôi chùa cổ Long Cốt Tự từng là một ngôi chùa to nhất nhì xứ Kinh Bắc ngày xưa, đã tồn tại đến vài trăm năm tuổi, được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Ngôi chùa tuy đã bị phá hủy chỉ còn lại một số di tích nhỏ, nhưng hàng năm người dân nơi đây vẫn mở hội rất to, khách thập phương về chiêm bái rất đông.
Ngôi chùa tuy không còn bề thế như trước nhưng tại nơi đây những nét văn hóa độc đáo vẫn còn giữ được trên những dấu tích sót lại. Những nét văn hóa này minh chứng cho một ngôi chùa từng là trung tâm Phật giáo của xứ Kinh Bắc xưa. Và ngôi chùa này còn nổi tiếng với những tập tục rất đặc biệt cùng những câu chuyện kỳ bí được truyền miệng từ đời này sang đời khác.
Hướng cổng chùa làm trai, gái làng bị ế
Chùa Long Cốt Tự thuộc địa phận của làng Thượng Lâm, xã Thanh Lâm, huyện Lục Nam, Bắc Giang. Ngôi chùa ngụ trên đỉnh ngọn núi địa hình rất đẹp có tên là núi Chùa, từ đỉnh núi có thể quan sát khắp bốn phương tám hướng. Ngày xưa một vị quan tinh thông địa lý đã chọn địa thế cho ngôi chùa này, cái tên Long Cốt Tự có nghĩa là chùa nằm trên xương con rồng. Chùa có niên đại khoảng vài trăm năm. Theo gia phả của làng để lại thì trước kia ngôi chùa này rất bề thế, sư sãi rất đông đến hàng trăm tu sĩ, người dân vẫn còn lưu truyền câu ví để ca ngợi về ngôi chùa là "nhất Kinh Kỳ, nhì Thượng Lâm", tức ngôi chùa này to thứ nhì xứ Kinh Bắc ngày xưa. Lúc còn bề thế, chùa có tới hơn một trăm gian, làm toàn bằng gỗ quý. Trong thời kỳ Pháp xâm lược thì ngôi chùa đã bị đốt phá, đổ nát nên người ta dỡ bỏ đi để xây chùa mới ở vị trí khác. Những di tích còn lại đã được xếp hạng di tích quốc gia.
Đến thăm ngôi chùa, chúng tôi may mắn được gặp cụ Nguyễn Văn Mùa (93 tuổi) là người trông nom chùa cùng một số bậc cao niên đang dọn dẹp chuẩn bị cho cúng lễ ngày rằm. Được Cụ Mùa và những cụ già trong thôn cho biết những câu chuyện kỳ lạ ở ngôi chùa cổ này, trong đó có câu chuyện về hướng cổng chùa làm cho trai gái trong làng ế chồng ế vợ nhiều năm liền. Dân gian có câu "Mắt toét thì tại hướng đình, cả làng mắt toét chứ mình gì em". Theo như cụ Mùa thì ngôi chùa này từng đổi hướng cổng đi tất cả ba lần vì những lý do rất "lạ đời".
Trước kia cổng của ngôi chùa quay về hướng Bắc, nhìn thẳng xuống cánh đồng dài rộng rất đẹp. Nhưng trong nhiều năm liền trai làng không hiểu sao mắt cứ toét nhèm, con gái làng thì đẹp như tiên, nức tiếng khắp cả vùng Kinh Bắc nhưng trai làng Thượng Lâm không lấy được vợ làng vì xấu mã, con gái toàn lấy chồng thiên hạ hết. Tình trạng trên diễn ra nhiều năm liền. Các cụ trong làng thấy vậy cho rằng tại hướng cổng chùa chưa chuẩn, bèn bàn bạc với sư cụ cho đổi cổng chùa sang hướng Đông. Khi đổi cổng chùa sang hướng Đông thì quả nhiên trai làng hết mắt toét và có phần "đẹp mã" ra, đi đâu là gái cứ mê tít. Thời đó nhiều ông có tới 3, 4 bà vợ. Nhưng ngược lại gái làng lại trở nên xấu xí khó lấy chồng, trông cô nào không đen thì thấp, hoặc là có tật, ế chỏng chơ cả đám.
Lần này cổng chùa lại được xem là nguyên nhân và các cụ quyết đinh đổi sang hướng khác. Khi đổi hướng cổng chùa, sắc đẹp của chị em có vẻ ổn hơn, nhưng khổ nỗi dân làng lại khó làm ăn, nhiều gia đình đang giàu có bỗng khuynh gia bại sản, người buôn bán thì thua lỗ, kẻ cấy cày thì mất mùa. Người ta lại nghĩ ngay đến hướng cổng chùa "không hợp" nên mới xảy ra như vậy.
Thế là cổng chùa lại được đổi một lần nữa sang hướng Nam. Hồi cụ Mùa còn bé được chứng kiến lần đổi cổng chùa cuối cùng đó. Lần đổi này xem ra "hiệu quả" nhất, trai gái đều bình thường như nhau, dân làng làm ăn yên ổn và cổng chùa cũng được giữ nguyên từ đó đến giờ.
Ngôi chùa không bao giờ bị mất trộm
Ngôi chùa còn nổi tiếng là linh thiêng, được người dân nơi đây thờ cúng rất chu đáo. Cụ Mùa là người gắn bó với ngôi chùa từ nhỏ nên cụ cho biết có rất nhiều câu chuyện ly kỳ xảy ra với những người trót "đụng chạm" vào vùng đất của ngôi chùa, những câu chuyện khó tin nhưng mà có thật tại ngôi chùa cổ này. Ở ngôi chùa này có một điều đặc biệt là không bao giờ mất đi một thanh củi hay một thứ gì. Từ củi đóm đến tiền giọt dầu công đức, ngay cả đến những đồ thờ cúng có giá trị dù không có ai trông nom thì cũng không sợ mất trộm bao giờ. Vì cứ có ai trót lấy những gì thuộc về ngôi chùa đều phải trả lại y nguyên chỗ cũ.
Trước kia trong chùa có những viên gạch cổ vuông vức và những phiến đá khá nhẵn nhụi, nhiều người thấy vậy bèn đem về để dùng. Nhưng cứ ai lấy về cũng đều gặp phải những chuyện lạ, người đau tay, người thì lăn ra ốm, thuốc thang thế nào cũng không khỏi. Rồi khi ngủ hễ cứ nhắm mắt là thấy một vị sư chống gậy gõ mõ đến nói: "của nhà chùa sao các con lại đem về dùng, nhà chùa lấy đâu ra đồ dùng". Cả mấy người lấy gạch đá về đều gặp chung một giấc mộng như vậy, ai cũng sợ hãi bê vội gạch đá lên trả lại nhà chùa thì lập tức hết đau ốm, khi nằm ngủ cũng không còn gặp giấc mộng như vậy nữa.
Ở làng có cô Nguyễn Thị Thực, thỉnh thoảng lên núi kiếm củi vào chùa thấy một hòn đá xanh nhẵn nhụi rất đẹp. Cô nghĩ nhà mình đang cần có một phiến đá để kê cái bể nước, liền đem về để dùng. Nhưng kể từ ngày mang đá về cứ đau ốm liên miên, khám thế nào cũng không ra bệnh. "Có bệnh thì vái tứ phương", cô đi xem bói thì thầy bói bảo cô lấy của nhà chùa nên mới bị như vậy, chỉ cần đem trả lại thì không sao hết. Nhớ ra hòn đá mà mình mang về nhà cô vội đem trả lại, sự ốm đau cũng hết.
Rồi có mấy người dân có lần rủ nhau lên chùa chặt cây lấy củi về đun, làm cán cuốc. Nhưng củi chưa kịp khô, cây chưa kịp làm cán cuốc thì ai cũng bỗng dưng bị đau bụng, mê sảng giống y hệt như nhau. Những cụ già biết chuyện bèn khuyên nên trả lại chùa củi đóm thì cả mấy người lập tức khỏi ốm đau, trở lại bình thường. Cụ Mùa nói rằng: "Mấy người trót phạm vào đất linh thiêng của chùa đều là người dân xung quanh đây cả, họ vẫn còn sống nên hỏi ai cũng biết những chuyện đó".
Lên chùa nói bậy là "đau mồm"
Ngôi chùa có một tập tục là khi lên chùa thì tuyệt đối không ai được nói bậy bạ một từ nào. Theo các bậc cao niên ở địa phương thì tập tục này đã có từ rất lâu, ngay từ thời các cụ đầu còn để chỏm đã được ông bà cha mẹ dặn dò là "lên chùa không được nói bậy bạ nếu không thần thánh sẽ quở phạt". Và cũng có câu chuyện linh ứng xoay quanh tập tục này mà đến nay chưa có lời giải thích.
Tục lệ này này bắt nguồn từ việc sư trụ trì ra lệnh cấm không ai được nói những câu bậy bạ trong chùa, nếu nói bậy sẽ bị phạt. Vì thế mà từ sư sãi đến người dân đến chùa không ai dám nói những câu tục tĩu. Tục lệ này cũng chẳng ai để ý đến nữa từ khi ngôi chùa không còn. Nhưng có một điều lạ là cho đến nay hễ cứ ai nói bậy là mồm miệng lại "có vấn đề".
Cách đây nhiều năm về trước khi các cụ muốn tu bổ lại ngôi chùa, mọi người cùng góp sức vào làm, có mấy người đàn ông trong số đó có ông Nguyễn Văn Lộc nhà trong thôn văng tục trêu đùa nhau, còn nói rằng "chuyện hoang đường, có thần thánh nào quở phạt nói bậy bao giờ", nhưng đến tối về nhà mồm không hiểu sao cứ sưng lên. Mua thuốc uống kiểu gì cũng không khỏi, đêm nằm ngủ cứ mơ thấy một người mặc quần áo chùa vả vào mồm vì cái tội ăn nói bậy bạ. Mấy ông sợ quá liền sắm mâm hoa quả mang lên chùa tạ lỗi thì lập tức mồm khỏi sưng và ăn uống bình thường. Cũng từ đó mà người dân nơi đây không ai bảo ai nhưng khi lên chùa thì từ già đến trẻ con đều không ai dám nói bậy bạ dù chỉ một câu.
Hàng năm ngày 19 tháng Giêng là ngày hội của chùa, với sự nổi tiếng và linh thiêng của mình, ngôi chùa vẫn thu hút khá nhiều khách thập phương từ mọi miền về dự lễ hội. Tuyệt nhiên không ai dám nói bậy bạ một câu nào.
Những câu chuyện nghe có vẻ khó tin những người dân ở quanh ngôi chùa này từ già tới trẻ đều thuộc những câu chuyện đó như lòng bàn tay. Không những thế ngôi chùa còn những chuyện ly kỳ xung quanh những tòa tháp cổ còn tồn tại đến ngày nay.
Kì tới: Những cuộc đào bới bí ẩn và bí mật về con rắn trú ngụ tại ba tòa tháp cổ hàng trăm năm tuổi
Theo ANTD
Bà tổ ca trù và kế diệt giặc Minh có một không hai Ca trù - Di sản văn hoá Việt Nam đã nổi tiếng khắp thế giới, nhưng ít ai biết bà tổ của nghệ thuật ca trù lại là một nhân vật hết sức gần gũi trong sách sử. Di tích đền thờ Đào nương hiện được ghi là "đền Mẫu" Lấy lời ca làm vũ khí Bà Bùi Thị Phấn - Trưởng phòng...