Gặp “chuyên gia giả dạng” trong thế giới ngầm
Spyros Enotiades là một “diễn viên” lành nghề, chuyên thủ vai các bố già, người trung gian hoặc chuyên gia rửa tiền, trong các chiến dịch gài bẫy, giúp Cơ quan phòng chống ma túy Mỹ (DEA) tóm cổ nhiều tay tội phạm sừng sỏ.
Súng đạn thu giữ sau một chiến dịch giăng bẫy có sử dụng chuyên gia giả dạng và đặc tình của DEA ở New York.
Tay buôn vũ khí cho Taliban ở Châu Âu
Một buổi chiều ngày 9.2.2011, tại một căn phòng hạng sang ở Khách sạn City tại Bucharest, Romania, hai người đàn ông với hy vọng có thể bán một lô vũ khí quân dụng trên chợ đen, đã gặp gỡ một doanh nhân bặt thiệp trong độ tuổi 60 có tên Yianni. Cả hai chỉ biết rằng Yianni – một người Hy Lạp thấp đậm, với bộ râu được cắt tỉa đẹp đẽ – là kẻ có tiền và được tổ chức Taliban tin tưởng giao cho việc mua vũ khí.
Như được khuyến cáo nhiều lần khi bắt đầu tiến hành buôn bán lô hàng cấm trị giá nhiều triệu đô la, 2 người đàn ông, với một là người Mỹ gốc Iran khoảng 30 tuổi và kẻ còn lại là người Mỹ gốc Israel khoảng 50 tuổi, đã tỏ ra rất thận trọng. Nhưng sau vài cuộc tiếp xúc, cả hai dần tin tưởng hoàn toàn Yianni là người của Taliban, dựa vào phong thái giao tiếp và sự am hiểu nội tình của nhân vật này. Cả ba đã lên một danh sách vũ khí mà họ sẽ giao dịch, gồm 92 quả tên lửa phòng không vác vai Stinger, bên cạnh tên lửa chống tăng Javelin và M47 Dragon.
Khi đôi bên gặp gỡ, Yianni chào đón nồng nhiệt hai vị khách của mình bằng một thứ tiếng Anh pha lẫn chất giọng Hy Lạp đặc sệt. Ông gọi phục vụ một số món ăn nóng hổi và trong một giờ tiếp theo, đôi bên thống nhất mức giá 3 triệu USD cho lô hàng đầu tiên. Yianni muốn số vũ khí này được chuyển tới cảng Constanta ở Hắc Hải. Ông giải thích rằng Taliban đang cần gấp vũ khí để bảo vệ các phòng chế tạo ma túy của chúng trước nhiều đợt tấn công liên tục của quân đội Mỹ.
Ngày tiếp theo, các bên lại gặp nhau vào khoảng buổi trưa. Yianni nói rằng khoản tiền thanh toán trước trị giá 250.000 euro đang được chuyển tới. Đôi bên tiếp tục trò chuyện về đạn dược, về các chuyên gia sẽ được thuê để huấn luyện Taliban dùng vũ khí mới và các ngân hàng được dùng làm điểm chuyển tiền. Yianni đảm bảo với 2 đối tác là những chiếc điện thoại BlackBerry ông mới giao cho họ hoàn toàn “sạch”, không bị nghe lén. “Không, chúng tôi tin tưởng ông 100%”, người Mỹ gốc Iran cất lời đáp lại.
Khi điện thoại của Yianni đổ chuông, ông liền nghe máy. “Nghe này, để cái túi ở băng ghế sau, nhớ chưa?”, ông nói với đầu dây bên kia. Tiếp đó cả ba bước ra khỏi căn phòng khách sạn để đi lấy tiền. Dọc đường, họ vấp phải một toán cảnh sát người Romania, súng lăm lăm trên tay và bị bắt tại trận.
Chỉ khi ra tòa sau đó, 2 kẻ bán vũ khí mới biết rằng Yianni, nhân vật với tên thật Spyros Enotiades – là một một chuyên gia giả dạng của Cơ quan phòng chống ma túy Mỹ (DEA). Tới lúc này, cả hai mới nhận ra căn phòng khách sạn nơi họ gặp Yianni đã bị theo dõi và ghi âm. Năm 2013, cả hai bị tòa án Mỹ kết án 25 năm tù giam.
Các chiến dịch giăng bẫy như nói ở trên thường bị chỉ trích vì dụ dỗ mục tiêu phạm tội. Nhưng DEA đã dựa rất nhiều vào chúng trong cuộc chiến chống ma túy toàn cầu mà tổ chức này tham gia kể từ khi thành lập vào năm 1973.
“Không gì hiệu quả hơn việc xâm nhập vào một tổ chức tội phạm và có một cá nhân tiến hành tiếp xúc với chúng, phát triển chứng cứ chống lại chúng”, Randall Jackson, cựu công tố viên liên bang, nay là luật sư tại một công ty luật ở New York, chia sẻ với phóng viên tờ New Yorker.
Theo thông tin từ Bộ Tư pháp Mỹ được công bố hồi năm 2016, trong giai đoạn từ năm 2010 tới 2015, DEA đã sử dụng hơn 18.000 nguồn tin đặc biệt khác nhau để chống tội phạm ma túy. Phần lớn trong số đó là đặc tình – các tay tội phạm đã cung cấp bằng chứng chống lại đồng bọn hoặc thủ lĩnh trong băng để nhận bản án nhẹ hơn. Đôi khi những người này giúp DEA bằng cách thu thập thông tin từ các tay anh chị mà họ vẫn giữ quan hệ.
Để bắt đầu một cuộc giăng bẫy, DEA thường đề nghị đặc tình dụ dỗ mục tiêu tiếp xúc với nhân viên chìm của cơ quan này hoặc các chuyên gia giả dạng như Enotiades, nhằm bàn một phi vụ làm ăn có thể vi phạm luật pháp Mỹ. Nếu mục tiêu sập bẫy, hai bên sẽ thương thảo chi tiết thương vụ trong các cuộc họp, với nội dung đều bị ghi âm và ghi hình bằng thiết bị chuyên dụng. Đôi khi thiết bị có thể chỉ nhỏ bằng một chiếc cúc áo.
Nhiều chuyên gia giả dạng được lựa chọn vì sự hiểu biết sâu rộng của họ trong lĩnh vực hàng không hoặc ngân hàng, để họ có thể thuyết phục mục tiêu về việc dùng máy bay vận chuyển ma túy, hoặc rửa tiền bẩn. Nhưng chỉ số ít trong đó, như trường hợp của Enotiades lại càng hiếm, mới trở thành đối tác được DEA ưa chuộng.
Không phải ai cũng được tưởng thưởng khi hợp tác với DEA. Lazarus St Rose, một đặc tình của DEA đã chết trong cảnh nghèo khó và cô đơn tại Moruga, quốc đảo Trinidad và Tobago.
Một cuộc chơi nguy hiểm
Enotiades không phải dân Mỹ mà vẫn mang hộ chiếu CH Síp. Nhìn vẻ bề ngoài, ông chẳng giống một đặc vụ của CIA. Ở tuổi 72, ông đã trải qua 3 cơn đột quỵ và có một cái hông suốt ngày gây đau đớn. Mỗi ngày ông rít hết hai bao thuốc lá và ăn uống mà chẳng buồn quan tâm tới tình trạng căn bệnh tim mạch mình đang phải chống lại.
Phóng viên New Yorker đã tiếp xúc với ông lần đầu vào năm 2015, tại một nhà hàng ở Philadelphia, Mỹ. Ngay từ lần gặp đầu, Enotiades đã biết cách trò chuyện và chào đón để người lạ bỗng thành quen. Ông có trí nhớ sắc sảo và biệt tài kể những câu chuyện khiến người nghe rất dễ tin. Ông cũng là bậc thầy trong việc ngắt lời người đối thoại, thường là sẽ kèm với những lời xin lỗi đầy lịch thiệp và sau đó nắm vai trò dẫn dắt câu chuyện một cách khéo léo nhất có thể.
Nói thông viết thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Italy, Tây Ban Nha và Hy Lạp, Enotiades chuyên thủ vai trùm băng đảng, người trung gian, chuyên gia quản lý tài chính trong thế giới ngầm. Ông gọi điện và tiến hành các cuộc gặp trực tiếp với nhiều mục tiêu của DEA.
Video đang HOT
Trong vòng 30 năm qua, ông đã trở thành chuyên gia giả dạng phục vụ lâu nhất và thành công nhất của DEA. Ông đã trực tiếp tham gia hàng chục cuộc điều tra buôn bán ma túy và rửa tiền trên đất Mỹ, Châu Âu, Nam Mỹ và Châu Phi. “Khả năng của ông ấy trong việc hòa lẫn vào nhiều nhóm chủng tộc và văn hóa khác nhau thật đáng kinh ngạc”, Russillo nói.
Louis Milione, một cựu giám sát ở Đơn vị hoạt động đặc biệt của DEA, người mới nghỉ hưu gần đây nhưng trước đó giám sát rất nhiều hoạt động của Enotiades, cũng có chung nhận xét. “Ông ấy là kẻ to gan lớn mật”, Milione nói. “Ông ấy có thể gây ảnh hưởng tại bất kỳ nơi nào lui tới”.
Cần biết rằng cho tới cuối những năm 1980, DEA thường tự tiến hành các hoạt động phá án ngầm. Michael Levine, một cựu đặc vụ DEA đã viết nhiều cuốn sách về những lần tham gia công tác ngầm ở Trung và Nam Mỹ, cho biết rằng họ luôn phải tham gia các trò đùa với mạng sống. “Nhất cử nhất động, mỗi từ ngữ bạn nói ra đều bị mục tiêu phân tích kỹ lưỡng”, Russillo đồng tình. “Mục tiêu là tội phạm, chúng suy tính từng phút một”.
Nhưng từ đầu những năm 1990, DEA bắt đầu chuyển công việc ra bên ngoài. Khỏi phải nói các đặc tình của DEA là những người chịu nguy hiểm lớn nhất. Michael Braun, người phụ trách các chiến dịch của DEA trong những năm 2000, cho biết chuyện một đặc tình bị dí súng vào đầu để tra hỏi chẳng có gì lạ. Hậu quả của việc mắc sai lầm thường vô cùng khủng khiếp. Theo Russillo, một đặc tình từng giúp DEA hạ vài mục tiêu ở Miami sau đó được tìm thấy trong tình trạng bị cắt cổ, với lưỡi của nạn nhân bị kéo từ miệng xuống xuyên qua vết cắt.
Các chuyên gia giả dạng gặp nguy hiểm không kém, bởi họ cũng tiếp xúc rất gần với tội phạm. Điều đáng chú ý là những người này không hề qua đào tạo chính thức. Thực tế các chuyên gia giả dạng của DEA đều được mong chờ sẽ biết cách hành xử với mục tiêu để chúng không nghi ngờ và những người như Enotiades học hỏi liên tục trong quá trình làm việc.
Đổi lại hiểm nguy, việc hợp tác với DEA thường dẫn tới những phần thưởng hậu hĩnh. Đơn cử như một cựu tay buôn ma túy có tên Carlos Sagastume, người thủ vai thành viên Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia (FARC) trong một chiến dịch dẫn tới việc bắt giữ trùm buôn vũ khí Viktor Bout hồi năm 2008, đã được thưởng 7,5 triệu USD. Enotiades từng nhận một khoản tiền hỗ trợ khá lớn từ DEA cho tới năm 2003. Kể từ đó, ông đã kiếm thêm hơn 6 triệu USD nữa.
Nhưng với Enotiades, việc tham gia các nhiệm vụ này đôi khi không chỉ là vì tiền. Thay vì thế, chuyện giống như một trò chơi cân não mà ông muốn thắng.
Hai lần chết hụt
Enotiades lớn lên trong một gia đình giàu có ở Nicosia, vào thời kỳ Síp vẫn là một thuộc địa của Anh và Tổ chức Quốc gia Các chiến binh Síp (EOKA) là một phong trào được ưa chuộng. Năm 11 tuổi, ông giúp NOCF phân phối tờ rơi chống chính quyền thuộc địa. Năm 12 tuổi, ông giúp chuyển một khẩu súng ngắn cho họ. Những gì ông học hỏi được từ quá trình hoạt động với tổ chức này là sức mạnh của sự bí mật và lòng trung thành, hai điều ông đánh giá tiền không mua nổi.
Sau khi Síp giành được độc lập, Enotiades đi lính một thời gian trong quân đội quốc gia, sau đó nghiên cứu quản trị kinh doanh ở Đại học Kỹ nghệ Northwestern, Anh quốc. Ông chưa từng uống rượu và ghét ma túy. Nhưng ông thích ngao du và đã tới Pháp, Đức, Áo làm việc trong những năm 1960. Giữa những năm 1970, ông tới Châu Phi mở một công ty nhập khẩu dược, trước khi trở về Síp vào năm 1980.
Năm 1982, nhờ một người bạn làm trong cơ quan cảnh sát Síp, Enotiades phát hiện một âm mưu, trong đó một dược sĩ sống ở Síp định lừa để cha ông mua 20.000 vỉ thuốc Captagon có chứa chất gây nghiện methaphetamine do Đức sản xuất và nhập khẩu chúng vào Nam Phi dưới nhãn mác khác. Đó là một hành vi phạm luật nghiêm trọng, nhưng nhờ được báo tin sớm mà ông đã giúp cha mình khỏi mắc bẫy, đồng thời giúp cảnh sát Đức bắt những kẻ trong đường dây lừa đảo.
Sau đó cũng chính người bạn kia đã giới thiệu để Enotiades hợp tác với DEA từ năm 1988. Enotiades chọn Argentine làm căn cứ cơ sở để triển khai các nhiệm vụ của DEA ở Nam Mỹ. Tuy nhiên phi vụ đầu tiên, thực hiện tại Panama, đã diễn ra không suôn sẻ. Lần ấy ông được giao nhiệm vụ đóng giả một tay buôn người Hy Lạp sẵn sàng trao đổi các thùng acetone, được dùng nhiều trong việc sản xuất cocaine, cho một băng tội phạm ma túy Panama để lấy cocaine thành phẩm. Ông ăn ngủ, lui tới hộp đêm cùng các mục tiêu trong suốt một thời gian dài. Nhưng một ngày nọ, ông mắc sai lầm khi mời một mục tiêu về nhà và hớ hênh để cuốn hộ chiếu Síp trên bàn.
Mục tiêu lập tức báo với đồng bọn. Biết mình bị lộ, Enotiades lo lắng rời khách sạn và báo với nhân viên DEA ở Panama. Phía DEA gây sức ép lên chính quyền Panama, giúp ông lấy lại hộ chiếu và lên máy bay rời khỏi quốc gia này chỉ vài giờ sau đó, với toàn bộ đồ đạc cá nhân bị vứt lại hết phía sau. “Lần ấy quá may, vì chúng không giết tôi”, ông kể.
Tuy nhiên cảm giác nguy hiểm và sự phấn khích khi có thể dắt mũi tội phạm đã kịp bập vào đầu Enotiades, làm ông thấy mê công việc mới. “Một khi đã thích, bạn đơn giản sẽ thích mãi”, ông nói. Enotiades bắt đầu chủ động tìm kiếm các tay buôn ma túy tại nhiều hộp đêm và sòng bạc ông thường xuyên lui tới ở Buenos Aires, đôi khi bằng cách vờ lộ ra thông tin cho biết mình cũng buôn ma túy.
Năm 1991, ông dọn tới sống tại Brussels, Bỉ, với một kế hoạch mở công ty kinh doanh nhôm nhập khẩu từ Nga và thịt bò nhập từ Argentine. Ở đó ông hẹn hò với một nữ chủ nhà hàng có tên Mary, với anh trai có quen một trùm buôn ma túy tên Nicos Tsakalakis. Qua những lần tiếp xúc với nhau và tin tưởng Enotiades có quan hệ tốt với giới buôn ma túy Mỹ, Tsakalakis đề nghị ông bắt mối để bán “heroin chất lượng cao nhất từ Afghanistan” sang đất Mỹ. Enotiades đã báo cáo lại với văn phòng DEA ở Brussels và một chiến dịch giăng bẫy lừa Tsakalakis bán 50kg heroin vào Mỹ được thông qua.
Tuy nhiên trước khi đôi bên có thể tiến hành thương vụ làm ăn, Enotiades phải vượt qua nhiều bài kiểm tra độ tin tưởng của Tsakalakis, gồm một lần qua sự thẩm định của bạn thân tên này – một người Hà Lan sành sỏi và đa nghi tên Gerard Raven – bài thử nghiệm mà ông phải sắm một chiếc xe Alfa Romeo đắt tiền mới có thể vượt qua.
Đầu năm 1993, Enotiades đi cùng Tsakalakis và Raven tới Boston, để kết nối họ với hay tay buôn ma túy ở Mỹ, thực tế là nhân viên DEA giả dạng. Màn giăng bẫy của họ diễn ra hoàn hảo, khi các nhân viên giả dạng ăn nói, hành xử, boa tiền rất hậu hĩnh cho bồi bàn theo đúng cách mà các tay buôn ma túy giàu có người Mỹ vẫn làm. Phía Tsakalakis không còn nghi ngờ gì khi các nhân viên giả dạng đưa gã tới phòng kín của một ngân hàng và cho xem số tiền mua ma túy gồm hàng cọc tiền 100USD mà họ đã chuẩn bị sẵn. Màn diễn của Enotiades tới đây là kết thúc. 2 năm sau, Tsakalakis cùng Raven bị bắt tại Bỉ và dẫn độ sang Mỹ, nơi cả hai bị kết án tới 9 năm tù.
Ngoài phi vụ này, Enotiades còn tham gia nhiều cuộc giăng bẫy khác. Đáng chú ý nhất là phi vụ ở Liberia hồi năm 2011. Lần đó ông đóng vai một nhà tư vấn tài chính Leban và đã giăng bẫy khiến một tay buôn lậu người Nigeria cùng một phi công người Nga sa lưới.
Tuy nhiên thành công nào cũng có cái giá của nó. Các mối quan hệ bạn bè và làm ăn của Enotiades thường đổ vỡ vì công việc với DEA. Sau phi vụ Brussels, cuộc tình của ông với Mary chấm dứt. “Ai cũng biết chuyện sau vụ đó”, ông nói. “Vì thế nếu tôi trở lại Brussels, bạn bè Tsakalakis sẽ chặt tôi ra nhiều mảnh”.
Kết thúc phi vụ Brussels, DEA đưa Enotiades về Detroit, trả cho ông khoản lương 900USD 1 tuần để thu thập thông tin tình báo về những kẻ buôn ma túy ở thành phố. Nhưng năm 1994, bực dọc vì không một manh mối nào của mình dẫn tới vụ lớn, ông đã trở lại Argentine và mở một hộp đêm Hy Lạp có tên First Class. Ông hy vọng có thể dùng hộp đêm làm điểm tìm kiếm mục tiêu tiềm năng.
Mùa Hè năm 1994, Enotiades bay tới Salta, miền Bắc Argentine để gặp hai tay buôn ma túy có tên Luis và Miguel. Cả hai đã đồng ý bán 10.000kg cocain cho những con buôn Mỹ mà Enotiades tuyên bố đại diện. DEA bắt đầu tiến hành giăng bẫy, nhưng những kẻ buôn ma túy nhanh chóng mất kiên nhẫn. Trong Lễ Tạ ơn năm đó, Miguel và một thành viên khác của băng đã đi máy bay riêng tới Buenos Aires để tìm gặp Enotiades.
Lần đó, các nhân viên DEA ở Đại sứ quán Mỹ tại Buenos Aires đang nghỉ lễ Tạ ơn nên đã không thông báo kịp cho Enotiades về chuyến thăm bất ngờ này. Dù ông đã thanh minh với Miguel rằng mình cũng không biết những kẻ mua ma túy ở đâu trên đất Mỹ, gã vẫn móc súng ép ông ra máy bay để tới Salta.
Ngay khi tới nơi, băng buôn ma túy nhốt Enotiades vào một trang trại chứa đầy cocaine, đưa cho một chiếc điện thoại và cảnh báo hạn chót để ông nối được liên lạc với bên mua ma túy là vào ngày hôm sau. Thật không may, tất cả các đầu mối liên lạc của Enotiades ở DEA đều đang nghỉ lễ Tạ ơn nên chẳng ai nghe máy.
Hoảng sợ, hoang mang, Enotiades ngồi bên cánh cửa của nông trại và nghe những tên gác chửi ông là “đồ khốn”, “thằng chết bầm”. Có vẻ chúng đang bực dọc với ông và cái kết sắp đến vào ngày hôm sau không có gì tốt đẹp.
Khi trời tối, Enotiades lập tức tìm cách trốn khỏi nơi giam giữ. Ông phát hiện một chỗ có gió lùa qua vách của nông trại. Ông bèn chuyển các gói cocaine ra khỏi chỗ để của chúng rồi dùng ván gỗ âm thầm đào một cái hố trên nền đất. Ban đầu ông dùng ván, sau đó ông dùng cả tay trần đào như điên. Tới gần sáng, cái lỗ đã đủ to để Enotiades chui qua và thoát ra ngoài tự do. Ông chạy thục mạng cho tới con đường đất gần đó, đi nhờ một chiếc xe tải tới thành phố Clorinda nằm sát biên giới Argentine với Paraguay. Từ đó ông liên lạc với Đại sứ quán Mỹ ở Asunción và nhân viên DEA đã đón ông về New York. Thêm một lần nữa Enotiades thoát chết thần kỳ.
Viktor Bout, trùm buôn ma túy đã bị bắt và dẫn độ về Mỹ sau chiến dịch giăng bẫy của DEA.
Cái giá của đặc vụ chìm
DEA không tiết lộ rằng có bao nhiêu đặc tình đã bị hại khi giúp họ hoàn thành công việc. Nhưng một hồ sơ kiểm toán được Bộ Tư pháp công bố hồi năm 2015 cho thấy các cơ quan chấp pháp liên bang đã trả trợ cấp cho gia đình đặc tình bị giết, hoặc cho chính đặc tình bị tật nguyền khi làm nhiệm vụ. Có khả năng số người bị chết hoặc tật nguyền khi làm việc cho DEA còn cao hơn mức này. Cá nhân Enotiades tin rằng DEA tắc trách trong nhiệm vụ ở Salta, nhưng thừa nhận ông cũng có phần trách nhiệm ở trong đó.
Cho tới đầu những năm 2000, Enotiades chủ yếu thủ vai thành viên cấp trung của một tổ chức buôn ma túy, hoặc đàn em tin cẩn của một trùm ma túy. Nhưng nay khi đã gần 60 tuổi, ông bắt đầu đổi vai, thành một ông trùm. Enotiades luôn cẩn trọng với mọi chi tiết nhỏ có thể làm hỏng vai diễn của mình, từ lọ khử mùi thân thể, cho tới bộ vest ông mặc trên người hay chiếc đồng hồ ông mang trên tay. Ông đã từng mua một chiếc đồng hồ đi thuyền hiệu Corum có giá 4.500USD chỉ để phục vụ một cuộc gặp với mục tiêu trên du thuyền. “Đôi khi bạn phải mặc vest đắt tiền và để thương hiệu tạo uy tín cho bản thân. Những gã đó hẳn sẽ phải thốt lên rằng cha mẹ ơi, lão ta đang mặc một bộ vest giá 2.000USD, dù thực tế nó chỉ có giá khoảng 300USD”, ông chia sẻ. Quan trọng là thần thái, phong cách phải toát lên được cái chất của một ông trùm – điều mà Enotiades luôn làm rất tốt.
Kể từ khi Enotiades bắt đầu nói chuyện với phóng viên New Yorker vào năm 2015, ông cũng cho biết ý định về hưu. Đó là lý do để ông thoải mái chia sẻ câu chuyện của mình. Sau rốt ông đã hoạt động chìm suốt nhiều năm và nay thế giới cần phải biết chút đóng góp của ông.
Trong lúc trò chuyện, có lúc Enotiades cảm thấy cay đắng về việc hợp tác với DEA, vì những khoản thưởng lớn mà tổ chức này hứa đôi khi phải mất nhiều năm mới có thể thành hiện thực. Trong khi đó mỗi ngày ông đều cần tiền để chữa trị cho cái hông đau và căn bệnh tim, khi ông không có bảo hiểm y tế. Và tình hình càng tệ hơn khi các dự án đầu tư khác của Enotiades, ngoài những gì ông làm cho DEA, đều thất bại, khiến ví tiền của ông càng lúc càng teo tóp.
Khó khăn cá nhân khiến Enotiades không còn lựa chọn nào khác ngoài tiếp tục làm việc cho DEA để có tiền. Nhưng Enotiades thừa nhận ngay cả nếu đã có đầy tiền trong tay, chưa chắc ông đã thích cảnh nằm dài trên ghế tại một bãi biển nào đó cho tới lúc tắt thở. “Đấy chưa bao giờ là phong cách của tôi cả”, ông nói.
HƯƠNG GIANG (TỔNG HỢP)
Theo LĐO
Cuộc đời hai mặt của "bố già" chung thủy nhất thế giới ngầm
Sam Giancana là một trong những cái tên gây khiếp sợ nhất thế giới ngầm tại Mỹ những năm giữa thế kỷ XX, nhưng ít ai biết rằng, đằng sau vẻ ngoài tàn độc ấy là một người đàn ông hết mực chung tình.
Nhắc đến "trùm mafia", người ta thường hình dung ra những gã tội phạm máu lạnh, mang hàng loạt các tội danh vô cùng nghiêm trọng liên quan đến ma túy, cướp bóc, giết người, khủng bố... Họ không chỉ nổi như cồn trong thế giới ngầm mà còn khiến các nhà điều tra phải mất nhiều thời gian và công sức trong việc thực thi pháp luật. Tuy nhiên, cuộc đời của họ cũng có nhiều góc khuất, đôi khi khác hẳn với vẻ bên ngoài ngang tàng. Loạt bài " Cuộc đời của những ông trùm khét tiếng thế giới" sau đây sẽ hé lộ một phần thế giới không được biết đến ấy.
Chân dung "bố già" Sam Giancana.
Thành phần bất hảo
Sinh ngày 15/6/1908 tại Chicago, tuổi thơ của Sam Giancana là những tháng ngày đầy rẫy sự đau đớn. Tên thật là Baptized Momo Salvatore Giancana, hắn lớn lên trong một khu phố ổ chuột ở khu vưc tây nam thành phố, là con trai của một lao động nhập cư Italy.
Từ nhỏ, với tính cách ngỗ ngược và bất trị do cuộc sống khốn cùng và những tháng ngày bị cha hành hạ, đánh đập, Sam bị đuổi khỏi trường học và được gửi đến trung tâm cải tạo dành cho những đứa trẻ "bất kham". Tại đây, Sam tiếp tục gây náo loạn bằng những phi vụ "thanh toán" nhau hết sức khủng khiếp và lại bị đuổi.
Kể từ đó, bất cứ vỉa hè hay gầm cầu nào cũng đều trở thành nhà của hắn với hàng loạt các vụ trộm cắp, đánh nhau. Sam sống lang thang, vất vưởng và khi lớn hơn chút nữa, hắn ghi danh vào một băng nhóm đường phố có tên "The 42s", chuyên phục vụ cho các thành viên của nhóm Mafia Chicago những năm 1920, dưới sự lãnh đạo của ông trùm khét tiếng Al Capone thời điểm đó.
Như cá gặp nước, kể từ khi gia nhập băng này, Giancana có cơ hội thể hiện "năng khiếu" của mình và liên tiếp lập công nên đã lọt vào mắt xanh của ông trùm. Đến năm 1929, cảnh sát bắt Giancana tội trộm cắp xe hơi ở khu Litle Italy và phải bóc lịch trong 3 năm. Sau khi ra tù, hắn lao vào sản xuất rượu lậu. Năm 1939, Giancana lại bị cảnh sát tóm và phải ngồi tù 4 năm.
Sau khi được thả ra vào đầu những năm 1940, Giancana bắt đầu thực hiện các hoạt động cờ bạc bất hợp pháp tại Chicago, đặc biệt là các khu vực người Mỹ gốc Phi. Thông qua những vụ đánh đập tàn bạo, bắt cóc, và giết người, Sam và đồng bọn của mình đã giành quyền kiểm soát các sòng bạc bất hợp pháp tại Chicago và chúng đem về những khoản tiền lãi khổng lồ lên tới hàng triệu USD cho tổ chức. Dần dần, y trở thành nhân vật quyền lực thứ hai trong băng đảng.
Năm 1957, khi ông trùm băng đảng rút về hậu phương thì không còn cái tên nào xứng đáng hơn Sam Giancana. Hắn lập tức ngồi vào vị trí quan trọng này, có trong tay mọi điều kiện để tung hoành ngang dọc. Hắn kiểm soát mọi hoạt động cờ bạc và mại dâm, buôn bán ma túy và các ngành công nghiệp bất hợp pháp khác ở quê nhà. Dưới sự lãnh đạo của Sam, băng đảng Mafia Chicago phát triển thành một tổ chức tội phạm lớn mạnh.
Sam có những mối quan hệ khá bí ẩn, phức tạp với các chính trị gia quyền lực lúc bấy giờ trong đó có Tổng thống Kennedy. Người ta đồn rằng, y đã dùng thế lực của mình để huy động lượng lớn cử tri bỏ phiếu ủng hộ cho Tổng thống Kennedy trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm 1960.
Đến năm 1965, sau khi Tổng thống Kennedy qua đời, Sam Giancana bị đưa ra xét xử vì tội từ chối làm chứng trước tòa trong một cuộc điều tra tội phạm có tổ chức ở Chicago. Sam Giancana bị kết án một năm tù. Sau khi được trả tự do, Sam tới Mexico nhưng nhanh chóng trở lại Mỹ để tiếp tục làm chứng cho vụ án khác. Điều đó khiến những người anh em của y bắt đầu không còn tin tưởng vào y nữa, mâu thuẫn giữa y và các cộng sự đã lên tới đỉnh điểm.
Ngày 19/6/1975, khi chuẩn bị ra tòa làm chứng cho một phi vụ tiếp theo, Sam Giancana đã bị những sát thủ bí mật lẻn vào nhà rồi bắn chết với một phát súng phía sau đầu và 6 phát xung quanh miệng.
Chuyện tình "đũa mốc" - "mâm son"
Cuộc đời của ông trùm Sam Giancana kết thúc nhưng cái tên ấy vẫn thường xuyên được nhắc tới và được xem là biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu trong thế giới toàn máu và nước mắt này.
Sam Giancana bên người vợ mà hắn hết mực thương yêu.
Không phải ai cũng biết rằng một người sở hữu một quyền lực và số tài sản khủng khiếp, có biết bao mỹ nữ vây quanh lại có thể chung thủy suốt đời với 1 người phụ nữ duy nhất. Ra ngoài, Sam có thể là một "bố già" máu lạnh, tàn độc và thủ đoạn nhưng về nhà, y dường như biến thành một con người hoàn toàn khác, một người chồng vô cùng yêu thương vợ và một người cha hoàn hảo với các con.
Năm 1933, Sam 25 tuổi, vài tháng sau khi ra tù trong lần phạm tội đầu tiên, hắn kết hôn với người con gái mà hắn từng trúng "tiếng sét ái tình" ngay những lần đầu gặp gỡ. Người phụ nữ đó là Angeline De Tolve, một người Ý di dân đến Mỹ.
Angeline De Tolve vốn là ca sĩ chính trong một nhóm nhạc khá tên tuổi lúc bấy giờ. Cựu nhân viên đặc vụ FBI - William Roemer, người đã theo dõi Sam trong nhiều năm vẫn không thể hiểu được điều gì đã khiến hai con người ở hai thế giới khác nhau có thể hòa hợp đến như vậy.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Los Angeles Times vào năm 1995, Roemer cho biết: "Đó là câu chuyện tình lãng mạn không tưởng. Chúng tôi từng đặt micrô trong trụ sở của hắn và nghe lén hắn nói chuyện suốt thời gian dài. Sam kém sắc, trình độ văn hóa thấp, tôi không thấy ở hắn có chút phẩm chất đạo đức tốt đẹp nào. Trong khi Angeline rất đẹp, có tiền. Tôi đã từng nói chuyện với cô ấy vài lần, đó là người phụ nữ tinh tế, nhẹ nhàng, thông minh và được nuôi dạy rất tốt. Tuy nhiên, cô ấy lại dành tình yêu cho một tên mafia. Tôi thật sự không hiểu".
Cuộc sống gia đình lúc nào cùng êm đẹp, họ có với nhau 3 người con gái. Sóng gió ập đến vào năm 1954, Angeline qua đời đột ngột do bạo bệnh. Trong một thời gian dài, Sam Giancana đã rất đau khổ. Và hơn 20 năm còn lại của cuộc đời mình, ngoài những phi vụ giết người, buôn bán ma túy và vũ khí, Sam Giancana dành toàn bộ tình yêu thương của mình cho những cô con gái.
Sau khi qua đời, y được chôn cất bên cạnh người vợ quá cố tại khu nghĩa trang gia đình ở Mount Carmel, Illinois.
---------------------------------------------
Mời độc giả đón đọc phần tiếp theo của " Cuộc đời của những trùm mafia khét tiếng thế giới", vào 4h ngày 18/5/2017.
Theo Danviet
Bi kịch 3 cô con gái xinh đẹp bị cha lạm dụng tình dục nhiều năm Sau nhiều năm bị người cha "bố già" hành hạ, ngược đãi và lạm dụng tình dục, 3 cô con gái của ông này đã phẫn uất dẫn đến hành động đâm chết cha mình. Ba cô con gái Kristina, 19 tuổi, Angelina, 18 tuổi, và Maria, 17 tuổi. Vụ việc như phim kinh dị đã xảy ra ở Moscow, Nga. Cơ thể...