Gạo Việt đi sau Thái Lan 100 năm: Lỗi hai ông lớn?
Bên trong hai TCT lương thực có nhiều doanh nghiệp nhưng hầu như chẳng doanh nghiệp nào có vùng nguyên liệu, họ làm chỉ mang tính chất đối phó.
Trách nhiệm của hai Tổng công ty lương thực
Trao đổi với Đất Việt, một số chuyên gia đã chỉ thẳng trách nhiệm của hai Tổng công ty lương thực miền Bắc và miền Nam (Vinafood 1, Vinafood 2) trong việc khiến gạo Việt có chất lượng kém, không có thương hiệu trên thị trường thế giới và đang bị tụt hậu dần so với Thái Lan cũng như một số nước khác trong khu vực.
PGS.TS Dương Văn Chín, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp Định Thành (Công ty CP BVTV An Giang) cho rằng, từ trước đến nay, để xuất khẩu gạo, Vinafood 1 và Vinafood 2 đi mua lúa gạo trôi nổi thông qua thương lái ở ngoài, không biết rõ nguồn gốc rồi trộn nhiều giống với nhau nên chất lượng gạo kém. Họ cạnh tranh trên thế giới bằng giá thấp để có được hợp đồng cung cấp gạo. Bởi hai Tổng công ty lương thực không có vùng nguyên liệu, trồng những giống lúa đặc sắc của riêng mình để bán ra thị trường trong nước và xuất khẩu nên gạo Việt không có thương hiệu là vì vậy.
Hiện có nhiều doanh nghiệp không phải thành viên của Vinafood nhưng họ có vùng nguyên liệu riêng, sản xuất gạo chất lượng để xuất khẩu. Ảnh minh họa
“Bên trong Vinafood 1 và Vinafood 2 có rất nhiều doanh nghiệp. Ngay cả Tổng công ty lương thực miền Nam có 17 đơn vị thành viên nhưng hầu như không có doanh nghiệp nào có vùng nguyên liệu. Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp phải có vùng nguyên liệu thì mới cho xuất khẩu, họ liền chạy đôn chạy đáo được vài ba trăm hecta để chứng minh mình có vùng nguyên liệu, trong khi thực chất họ mua gạo trôi nổi, trộn vào rồi bán. Đây chính là cái dở nhất trong cách làm gạo của Việt Nam: doanh nghiệp không cố gắng, không nỗ lực có vùng nguyên liệu để có gạo chất lượng cao, an toàn cạnh tranh thắng lớn với gạo quốc tế để tham gia xây dựng thương hiệu gạo Việt.
Hiện nay ở miền Nam có doanh nghiệp không phải thành viên của Vinafood 2 nhưng họ có vùng nguyên liệu riêng, sản xuất gạo chất lượng để xuất khẩu. Họ cũng có thế đứng nhất định vì chất lượng gạo của họ được thị trường thế giới chấp nhận. Nhưng số doanh nghiệp như vậy còn rất ít”, PGS.TS Dương Văn Chín cho biết.
Đồng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thương mại (Bộ Công thương) nói thêm rằng, sự tụt hậu của gạo Việt Nam mới xảy ra nhưng lý do xưa nay thì vẫn thế: Việt Nam không có những doanh nghiệp xuất khẩu thương mại đúng nghĩa và đủ mạnh. Trước đây, việc xuất khẩu gạo do doanh nghiệp nhà nước đảm nhận, đầu tiên là xuất theo quota rồi đến hợp đồng tập trung và họ không quan tâm đến việc làm thương hiệu cho gạo Việt Nam. Mãi đến năm 2001, Nhà nước mới cho tư nhân tham gia xuất khẩu gạo nhưng số lượng không nhiều, hai Tổng công ty lương thực chiếm vị trí gần như bá quyền trên thị trường xuất khẩu gạo.
Video đang HOT
“Hai Tổng công ty lương thực không phải là những đơn vị kinh doanh thực thụ và được giao cho rất nhiều đặc quyền. Họ cứ ngồi chờ Nhà nước bao cấp, trợ giá, họ ký kết những hợp đồng lớn rồi phân bổ cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tự làm. Ngoài hai Tổng công ty này, còn có một loạt doanh nghiệp nhà nước ở các tỉnh, đặc biệt gạo ở ĐBSCL bị họ khống chế hết. Doanh nghiệp tư nhân yếu thế, làm được chăng hay chớ, không có sức đâu để xây dựng thương hiệu.
Thế nhưng trách hai Tổng công ty chỉ là một phần, có trách phải trách các cơ quan quản lý đã không cải cách hệ thống thương mại về gạo, mà đầu mối là Bộ Công thương và Bộ NN&PTNT”, ông Nam thẳng thắn.
Theo_Báo Đất Việt
Gạo Việt sau Thái Lan 100 năm: Đừng hỏi vì sao...
Hai Tổng Công ty lương thực chuyên đi thu gom lúa gạo về trộn, có gì bán nấy, thử hỏi làm sao gạo Việt Nam không có thương hiệu?!
TS Lê Văn Bảnh, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL chia sẻ những suy nghĩ tâm huyết xung quanh thực trạng gạo Việt Nam đang tụt hậu so với Thái Lan và một số nước khác trong khu vực.
Đừng hỏi vì sao gạo Việt chưa có thương hiệu
Khẳng định trong thời kỳ hội nhập, kinh tế thị trường, bất kỳ mặt hàng nào của Việt Nam có thương hiệu đều rất quý và cần thiết, nhất là khi Việt Nam đang đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu gạo, TS Lê Văn Bảnh cho rằng, dường như đang có sự nhầm lẫn khi người ta cứ nói Nhà nước phải ra được thương hiệu gạo quốc gia.
Thực tế không phải như vậy, có được thương hiệu hay không là do doanh nghiệp và thương hiệu gạo không phải chỉ là chiếc logo gắn trên bao bì sản phẩm.
Bởi khâu tổ chức sản xuất của Việt Nam kém, chưa có vùng nguyên liệu tiêu chuẩn, do đó chớ nên nóng ruột mà đòi gạo thương hiệu
"Nhiều người cứ ào ào kêu đòi phải có gạo thương hiệu, nhưng thương hiệu ở đâu mà có? Quan trọng nhất là phải có vùng nguyên liệu với giống lúa có đặc tính chung về chiều dài hạt gạo, độ thơm, độ dẻo, hàm lượng dinh dưỡng..., tuân thủ tiêu chuẩn bắt buộc như VietGAP, GlobalGAP.
Khi đó, sản xuất vụ đông xuân hay hè thu, năm này qua năm khác đều phải đáp ứng được tiêu chuẩn đó. Thương hiệu không phải ngày một ngày hai mà có, nó phải ăn sâu vào tiềm thức của người tiêu dùng và người ta quen dần.
Việt Nam có kiểu làm vụ này gạo ngon nhưng sang vụ sau độ thơm giảm, hạt ngắn hơn, chất lượng gạo không được vụ trước, do đó lại mất thương hiệu bởi thương hiệu đó không bảo đảm.
Ở nước ngoài, một dòng xe bị lỗi, lập tức hãng xe thu hồi để đảm bảo uy tín thương hiệu. Còn Việt Nam cứ nói thương hiệu nhưng không tổ chức sản xuất để xây dựng vùng nguyên liệu đảm bảo, cứ "tay không bắt giặc" thì làm sao có được thương hiệu!
Lại hỏi tại sao gạo Thái Lan có 250 thương hiệu, còn Việt Nam chỉ mấy phần trăm? Là vì Thái Lan tổ chức sản xuất vùng nguyên liệu theo tiêu chuẩn đã cả trăm năm, còn Việt Nam mới "lớ ngớ" làm theo kiểu thủ công, bao cấp.
Tổng Công ty lương thực miền Bắc và miền Nam (Vinafood 1, Vinafood 2) đi thu gom lúa gạo về, có gì bán nấy. Đã là thu gom thì trong dân có gì mua nấy rồi trộn đại với nhau, có khi cả chục giống lúa gạo với nhau khong theo bất cứ một tiêu chuẩn nào.
Trong khi đó, ngày nay máy phân tích có thể phát hiện rất nhanh lô gạo này hạt cứng hay mềm, phần trăm tấm bao nhiêu... Bởi khâu tổ chức sản xuất của Việt Nam kém, chưa có vùng nguyên liệu tiêu chuẩn, do đó chớ nên nóng ruột mà đòi gạo thương hiệu", ông Bảnh chỉ rõ.
Cách làm của các doanh nghiệp này là tìm hiểu xem nhu cầu của thị trường thích loại gạo gì, tiêu chuẩn ra sao rồi về tổ chức vùng nguyên liệu tuân thủ theo đúng tiêu chuẩn đó. Khách hàng sang tận nơi kiểm tra tại ruộng, thấy đáp ứng đủ các chỉ tiêu thì đồng ý nhập.
"Như Công ty Viễn Phú để trồng lúa hữu cơ họ chọn vùng đất U Minh (Cà Mau), quy trình canh tác cực kỳ nghiêm ngặt, phải tuân thủ yêu cầu không được sử dụng các loại phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ hay chất kích thích tăng trưởng.
Lúa hữu cơ chỉ được dùng các chế phẩm sinh học để chăm sóc. Bởi thế, gạo của họ bán được cho Mỹ với giá 3.500 USD/tấn.
Nếu làm gạo theo chuỗi khép kín từ khâu quy hoạch giống, tổ chức sản xuất, kiểm soát quá trình sản xuất, đảm bảo việc thu mua chế biến và tìm khách hàng để tiêu thụ thì bất kể thị trường có khó tính đến đâu, Việt Nam vẫn chinh phục được. Thế nhưng, số doanh nghiệp làm được như trên vẫn còn rất ít", TS Lê Văn Bảnh tiếc nuối.
Không thay đổi 20 năm nữa vẫn vậy
Điều khiến ông Lê Văn Bảnh trăn trở là đã rất nhiều năm, kể từ khi đổi mới đến nay, đã có 20 năm xuất khẩu gạo nhưng Việt Nam vẫn không hề đổi mới phương thức sản xuất, cách tổ chức để có sản phẩm chủ lực xuất khẩu.
"Không phải Việt Nam không có ai làm được. Đã có những doanh nghiệp xuất khẩu gạo qua Nhật, Mỹ, Âu châu..., khách hàng dù khó tính nhưng họ vẫn làm được. Tuy nhiên, như tôi nói ở trên, những doanh nghiệp như thế không nhiều.
Mặc dù đã có Quyết định 62 của Thủ tướng về Chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, trong đó ghi rõ Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu thương mại, chế biến hoặc xuất khẩu của doanh nghiệp. Thế nhưng sơ kết 2 năm thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp vùng ĐBSCL cho thấy, diện tích lúa tham gia cánh đồng lớn chỉ đạt 3,3% diện tích sản xuất.
Việt Nam phải có chiến lược sản xuất và tiêu thụ nông sản. Chúng ta có đất đai, nông dân giỏi..., bây giờ phải làm sao bán được gạo. Chúng ta phải sản xuất theo yêu cầu của thị trường, khách hàng cần gì, đặt hàng như thế nào thì doanh nghiệp về tổ chức sản xuất sao cho phù hợp với yêu cầu. Còn nông dân cũng không thể mạnh ai nấy làm mà phải tuân thủ theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp.
Với cây trái, cá tôm... cũng vậy. Bây giờ đã hội nhập nên Việt Nam buộc phải thay đổi, nếu không 20 năm nữa chắc Việt Nam vẫn cứ như vậy, thậm chí bị tụt hậu so với các nước khác", ông Bảnh nhận xét.
Theo_Báo Đất Việt
Khởi tố nguyên Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam Ông Nguyễn Hùng Linh bị khởi tố, bắt giam về hành vi "Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng".! Chiều 8/6, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang triển khai quyết định khởi tố bị can và bắt giam đối với ông Nguyễn Hùng Linh, nguyên Tổng giám đốc Công ty TNHH một thành viên Du...