Embolotherium: Loài tê giác sở hữu chiếc sừng giống như loài bọ hung
Loài tê giác cổ đại này có tên là Embolotherium, chúng sống ở Mông Cổ và các khu vực khác ở Đông Á, với hầu hết các hóa thạch được tìm thấy ở sa mạc Gobi.
Chi 130 tỷ triển khai đề án ‘ Xe đạp đô thị’ ở Hà Nội Câu chuyện ám ảnh của người đàn ông mắc kẹt ở hang động nhỏ xíu, chết trong tư thế chổng ngược trước sự bất lực của cứu hộ Góc việc nhàn lương hậu hĩnh dịp Tết: Dắt thú cưng đi dạo, chàng trai 26 tuổi kiếm hơn 60 triệu đồng chỉ trong 10 ngày nghỉ ‘Drama’ bủa vây series tiền truyện The Witcher: Điểm số thấp tệ hại, bị tố vi phạm bản quyền hình ảnh Không phải điện thoại hay TV, đây mới là những thứ thực sự ‘tương lai’ của CES 2023
Hóa thạch rất quan trọng trong việc giúp con người tìm hiểu về quá khứ. Với Trái Đất có tuổi ước tính khoảng 4,543 tỷ năm, một lượng sự sống không thể tưởng tượng được từng gọi hành tinh này là nhà của chúng.
Năm sự kiện tuyệt chủng xảy ra trên Trái Đất đã xóa sổ nhiều loài, nhưng may mắn thay, hóa thạch của những loài này có thể giúp chúng ta tìm hiểu về lịch sử rộng lớn của sự sống.
Bài viết này sẽ nói về một loài tê giác cổ đại có tên Embolotherium hiện đã tuyệt chủng, còn được gọi là “ Quái thú sấm sét”. Một số người có thể nói rằng loài vật này trông giống như một con tê giác thất bại của tạo hóa vì cái đầu có hình dạng độc đáo của chúng, nhưng còn rất nhiều điều thú vị khác để tìm hiểu về chúng.
Trong số tất cả các loài tê giác cổ đại, Embolotherium là loài có “sừng” đặc biệt nhất, trông thực sự giống như một chiếc khiên rộng, bằng phẳng gắn lên từ cuối mõm của nó.
Embolotherium là một chi động vật đã tuyệt chủng, tên của chúng được dịch từ tiếng Hy Lạp là “Quái thú sấm sét”. Loài vật này sống vào cuối kỷ Eocene ở Đông Á.
Tên của nó liên quan đến phần nhô ra từ hộp sọ, khiến nó trông giống như một con tê giác hiện đại phiên bản “lỗi”. Tuy nhiên chúng lại là họ hàng xa của các loài động vật như ngựa, heo vòi và tê giác hiện đại.
Embolotherium là một loài động vật có vú cổ đại rất lớn, chỉ được biết đến qua những tàn tích hóa thạch không hoàn chỉnh. Cho đến thời điểm hiện tại, các nhà cổ sinh vật học mới chỉ khám phá ra hai loài thuộc chi này là Emblotherium andrewsi và Embolotherium grangeri.
Embolotherium là một loài động vật có vú cổ đại rất lớn, chỉ được biết đến qua những tàn tích hóa thạch không hoàn chỉnh.
Mặc dù không có hóa thạch hoàn chỉnh của Embolotherium, nhưng có rất nhiều bằng chứng cho phép nghiên cứu chuyên sâu về loài động vật cổ đại này được tiến hành. Năm 1928 trong hệ tầng Ulan Gochu ở Nội Mông, Trung Quốc là nơi những hóa thạch đầu tiên của Embolotherium được phát hiện.
Được Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ tài trợ, nhà thám hiểm người Mỹ Roy Chapman Andrews và nhà cổ sinh vật học Walter W. Granger đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm vào Trung Quốc để khám phá các hóa thạch của những loài đọng vật cổ xưa.
Các hàm và hộp sọ hóa thạch khác của Emolotherium đã được phát hiện trong Hệ tầng Baron Sog và Hệ tầng Shara Murun. Hóa thạch của loài động vật này chỉ được biết đến ở Đông Á, bao gồm cả những phát hiện trong sa mạc Gobi.
Vì chúng là loài động vật thuộc họ Brontotheriidae, nên các loài động vật khác như Megacerops từ Bắc Mỹ đã giúp các nhà khoa học miêu tả vẻ ngoài của Embolotherium. Trong những mô tả ban đầu, giới nghiên cứu đã liệt kê hơn một chục loài Embolotherium, nhưng các nghiên cứu sâu hơn đã cắt giảm số lượng loài xuống chỉ còn hai loài.
Cấu trúc “sừng” kỳ lạ này có thể được sử dụng để tạo nên sự khác biệt ở vẻ ngoài (con đực có “sừng” càng to càng dễ dàng thu hút được sự chú ý của con cái) hoặc để cộng hưởng âm thanh.
Dù không có hóa thạch hoàn chỉnh nào của Embolotherium được tìm thấy, nhưng nhờ vào những dữ liệu đã biết về các loài Brontotheriidae khác như Megacerops, các nhà khoa học có thể ước tính kích thước của chúng.
Video đang HOT
Embolotherium được ước tính có chiều cao khoảng 2,5 mét và chiều dài lên tới 5 mét, ước tính chúng có thể nặng khoảng 2 tấn. Phần xương phát triển lớn nhô ra khỏi mặt dài khoảng 70 cm.
Các mô tả về loài động vật này cho thấy chúng trông rất giống với tê giác hiện đại, nhưng chúng có xương mũi phát triển lớn thay vì sừng.
Có giả thuyết cho rằng tấm sừng trước mũi của chúng có thể đã được sử dụng làm bộ cộng hưởng khuếch đại âm thanh của chúng. Tất cả các mẫu vật đã biết của chúng đều có xương mũi phát triển thành tấm lớn.
Embolotherium sống vào cuối Kỷ nguyên Eocene ở Đông Á.
Embolotherium sống ở Mông Cổ và các khu vực khác ở Đông Á, với hầu hết các hóa thạch được tìm thấy ở sa mạc Gobi. Loài vật này sống trong Kỷ Eocene, khoảng 41 đến 34 triệu năm trước đây.
Trong khoảng thời gian này, sa mạc Gobi sở hữu cảnh quan vô cùng khác so với ngày nay. Với thảm thực vật rất phong phú trong sa mạc này giống
Loài tê giác cổ đại này có tên là Embolotherium, chúng sống ở Mông Cổ và các khu vực khác ở Đông Á, với hầu hết các hóa thạch được tìm thấy ở sa mạc Gobi.
Chi 130 tỷ triển khai đề án ‘Xe đạp đô thị’ ở Hà Nội Câu chuyện ám ảnh của người đàn ông mắc kẹt ở hang động nhỏ xíu, chết trong tư thế chổng ngược trước sự bất lực của cứu hộ Góc việc nhàn lương hậu hĩnh dịp Tết: Dắt thú cưng đi dạo, chàng trai 26 tuổi kiếm hơn 60 triệu đồng chỉ trong 10 ngày nghỉ ‘Drama’ bủa vây series tiền truyện The Witcher: Điểm số thấp tệ hại, bị tố vi phạm bản quyền hình ảnh Không phải điện thoại hay TV, đây mới là những thứ thực sự ‘tương lai’ của CES 2023
Hóa thạch rất quan trọng trong việc giúp con người tìm hiểu về quá khứ. Với Trái Đất có tuổi ước tính khoảng 4,543 tỷ năm, một lượng sự sống không thể tưởng tượng được từng gọi hành tinh này là nhà của chúng.
Năm sự kiện tuyệt chủng xảy ra trên Trái Đất đã xóa sổ nhiều loài, nhưng may mắn thay, hóa thạch của những loài này có thể giúp chúng ta tìm hiểu về lịch sử rộng lớn của sự sống.
Bài viết này sẽ nói về một loài tê giác cổ đại có tên Embolotherium hiện đã tuyệt chủng, còn được gọi là “Quái thú sấm sét”. Một số người có thể nói rằng loài vật này trông giống như một con tê giác thất bại của tạo hóa vì cái đầu có hình dạng độc đáo của chúng, nhưng còn rất nhiều điều thú vị khác để tìm hiểu về chúng.
Trong số tất cả các loài tê giác cổ đại, Embolotherium là loài có “sừng” đặc biệt nhất, trông thực sự giống như một chiếc khiên rộng, bằng phẳng gắn lên từ cuối mõm của nó.
Embolotherium là một chi động vật đã tuyệt chủng, tên của chúng được dịch từ tiếng Hy Lạp là “Quái thú sấm sét”. Loài vật này sống vào cuối kỷ Eocene ở Đông Á.
Tên của nó liên quan đến phần nhô ra từ hộp sọ, khiến nó trông giống như một con tê giác hiện đại phiên bản “lỗi”. Tuy nhiên chúng lại là họ hàng xa của các loài động vật như ngựa, heo vòi và tê giác hiện đại.
Embolotherium là một loài động vật có vú cổ đại rất lớn, chỉ được biết đến qua những tàn tích hóa thạch không hoàn chỉnh. Cho đến thời điểm hiện tại, các nhà cổ sinh vật học mới chỉ khám phá ra hai loài thuộc chi này là Emblotherium andrewsi và Embolotherium grangeri.
Embolotherium là một loài động vật có vú cổ đại rất lớn, chỉ được biết đến qua những tàn tích hóa thạch không hoàn chỉnh.
Mặc dù không có hóa thạch hoàn chỉnh của Embolotherium, nhưng có rất nhiều bằng chứng cho phép nghiên cứu chuyên sâu về loài động vật cổ đại này được tiến hành. Năm 1928 trong hệ tầng Ulan Gochu ở Nội Mông, Trung Quốc là nơi những hóa thạch đầu tiên của Embolotherium được phát hiện.
Được Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ tài trợ, nhà thám hiểm người Mỹ Roy Chapman Andrews và nhà cổ sinh vật học Walter W. Granger đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm vào Trung Quốc để khám phá các hóa thạch của những loài đọng vật cổ xưa.
Các hàm và hộp sọ hóa thạch khác của Emolotherium đã được phát hiện trong Hệ tầng Baron Sog và Hệ tầng Shara Murun. Hóa thạch của loài động vật này chỉ được biết đến ở Đông Á, bao gồm cả những phát hiện trong sa mạc Gobi.
Vì chúng là loài động vật thuộc họ Brontotheriidae, nên các loài động vật khác như Megacerops từ Bắc Mỹ đã giúp các nhà khoa học miêu tả vẻ ngoài của Embolotherium. Trong những mô tả ban đầu, giới nghiên cứu đã liệt kê hơn một chục loài Embolotherium, nhưng các nghiên cứu sâu hơn đã cắt giảm số lượng loài xuống chỉ còn hai loài.
Cấu trúc “sừng” kỳ lạ này có thể được sử dụng để tạo nên sự khác biệt ở vẻ ngoài (con đực có “sừng” càng to càng dễ dàng thu hút được sự chú ý của con cái) hoặc để cộng hưởng âm thanh.
Dù không có hóa thạch hoàn chỉnh nào của Embolotherium được tìm thấy, nhưng nhờ vào những dữ liệu đã biết về các loài Brontotheriidae khác như Megacerops, các nhà khoa học có thể ước tính kích thước của chúng.
Embolotherium được ước tính có chiều cao khoảng 2,5 mét và chiều dài lên tới 5 mét, ước tính chúng có thể nặng khoảng 2 tấn. Phần xương phát triển lớn nhô ra khỏi mặt dài khoảng 70 cm.
Các mô tả về loài động vật này cho thấy chúng trông rất giống với tê giác hiện đại, nhưng chúng có xương mũi phát triển lớn thay vì sừng.
Có giả thuyết cho rằng tấm sừng trước mũi của chúng có thể đã được sử dụng làm bộ cộng hưởng khuếch đại âm thanh của chúng. Tất cả các mẫu vật đã biết của chúng đều có xương mũi phát triển thành tấm lớn.
Embolotherium sống vào cuối Kỷ nguyên Eocene ở Đông Á.
Embolotherium sống ở Mông Cổ và các khu vực khác ở Đông Á, với hầu hết các hóa thạch được tìm thấy ở sa mạc Gobi. Loài vật này sống trong Kỷ Eocene, khoảng 41 đến 34 triệu năm trước đây.
Trong khoảng thời gian này, sa mạc Gobi sở hữu cảnh quan vô cùng khác so với ngày nay. Với thảm thực vật rất phong phú trong sa mạc này giống môi trường sống vùng đất ngập nước hơn là khô cằn như hiện tại.
Răng của Embolotherium cho thấy chúng là động vật ăn cỏ. Chúng có răng cắt thay vì mài. Do đó, có thể thấy rằng chúng là loài thích ăn những thực vật thân mềm, không cần nhai nhiều. Môi trường sống vùng đất ngập nước với nhiều thực vật mềm là nơi loài vật này có khả năng sinh sống.
Mặc dù có kích thước khổng lồ và phát triển rất mạnh trong kỷ Eocene, tuy nhiên Embolotherium đã tuyệt chủng vào cuối kỷ Eocene. Nguyên nhân chính là do biến đổi khí hậu, đến cuối thế Eocene, khu vực châu Á mà loài động vật này sinh sống trở nên khô hạn hơn.
Những loài thực vật mềm mà chúng ăn đã bị thay thế bằng thảm thực vật khô hơn, cứng hơn khiến chúng khó ăn hơn. Các loài động vật khác đã cố gắng để thích nghi với môi trường, nhưng Embolotherium đã không thể làm được điều đó và dẫn đến tuyệt chủng.
môi trường sống vùng đất ngập nước hơn là khô cằn như hiện tại.
Răng của Embolotherium cho thấy chúng là động vật ăn cỏ. Chúng có răng cắt thay vì mài. Do đó, có thể thấy rằng chúng là loài thích ăn những thực vật thân mềm, không cần nhai nhiều. Môi trường sống vùng đất ngập nước với nhiều thực vật mềm là nơi loài vật này có khả năng sinh sống.
Mặc dù có kích thước khổng lồ và phát triển rất mạnh trong kỷ Eocene, tuy nhiên Embolotherium đã tuyệt chủng vào cuối kỷ Eocene. Nguyên nhân chính là do biến đổi khí hậu, đến cuối thế Eocene, khu vực châu Á mà loài động vật này sinh sống trở nên khô hạn hơn.
Những loài thực vật mềm mà chúng ăn đã bị thay thế bằng thảm thực vật khô hơn, cứng hơn khiến chúng khó ăn hơn. Các loài động vật khác đã cố gắng để thích nghi với môi trường, nhưng Embolotherium đã không thể làm được điều đó và dẫn đến tuyệt chủng.
Gomphotheres: Loài voi cổ đại sở hữu đến 4 chiếc ngà
Gomphotheres là một loài voi cổ đại, chúng lần đầu tiên xuất hiện vào cuối Kỷ Eocene, khoảng 34 triệu năm trước. Sau khi kết thúc kỷ Phấn trắng, khi khủng long tuyệt chủng, động vật có vú thời tiền sử bắt đầu phát triển và xuất hiện ngày càng nhiều.
Trong Kỷ nguyên Eocene, kéo dài 56-34 triệu năm trước, những động vật khổng lồ giống voi cổ đại bắt đầu lang thang qua đồng cỏ và rừng rậm. Mặc dù có ngoại hình giống với hậu duệ hiện đại của chúng, nhưng loài voi cổ đại này lại có bốn chiếc ngà khổng lồ mà chúng dùng để tự vệ.
Bằng chứng về gomphotheres có từ 34 triệu năm trước vào cuối kỷ Eocene. Chúng di cư và tiến hóa ở hầu hết các nơi trên thế giới cổ đại trong hàng triệu năm. Gomphotheres cuối cùng đã tuyệt chủng. Bằng chứng gần đây nhất về gomphotheres có từ khoảng 11.700 năm trước, trong kỷ nguyên Holocene hiện tại.
Gomphotheres lần đầu tiên xuất hiện vào cuối Kỷ Eocene, khoảng 34 triệu năm trước. Chúng sống qua thế Pleistocene và thế Holocene sớm. Người ta ước tính rằng loài động vật này đã tuyệt chủng cách đây khoảng 11.700 năm. Mặc dù chúng trông rất giống voi thời hiện đại nhưng thực ra chúng thuộc một họ khác và đã tuyệt chủng khi tổ tiên của loài voi hiện đại xuất hiện và tiếp tục tiến hóa.
Những sinh vật khổng lồ này sống ở đồng cỏ, rừng và đầm lầy. Chúng sở hữu thân hình to lớn hơn, với tỷ lên cơ thể ngắn hơn so với voi hiện đại. Nếu bạn sống cách đây 12.000 năm, rất có thể bạn sẽ nhầm những con vật khổng lồ này với voi hiện đại.
Các nhà nghiên cứu không thể nói chính xác nguyên nhân khiến gomphothere bị tuyệt chủng. Họ tin rằng sự thay đổi trong chế độ ăn uống, thay đổi nguồn thức ăn sẵn có và sự săn bắn của con người đều góp phần vào sự suy giảm và cuối cùng là sự tuyệt chủng của gomphotheres. Thay đổi khí hậu cũng có thể là một yếu tố góp phần theo thời gian.
Một sự khác biệt đáng chú ý giữa voi hiện đại và gomphotheres bên cạnh kích thước của chúng là số lượng ngà. Voi hiện đại có hai ngà. Đây thực sự là những chiếc răng. Chúng kéo dài xuống từ hàm trên. Voi dùng ngà để ăn và để tự vệ. Gomphotheres cũng có hai ngà trên giống voi hiện đại, nhưng chúng còn có cả hai chiếc ngà kéo dài từ hàm dưới lên trên.
Hàm của chúng tương tự như voi hiện đại. Chúng nhỏ so với kích thước và số lượng răng của chúng. Khi những chiếc răng lớn hơn mọc lên, những chiếc răng nhỏ hơn sẽ di chuyển ra phía trước của hàm. Gomphotheres được chia thành các phân nhóm như trilophodont và tetralophodont. Trilophodonts có ba tấm ở răng hàm, trong khi tetralophodonts có bốn tấm. Cấu trúc và chức năng của răng và hàm rất cần thiết cho sự tồn tại của gomphothere và cung cấp cho các nhà nghiên cứu nhiều thông tin về cách chúng sống.
Gomphotheres từng phân bố phổ biến và có thể thích nghi với nhiều cảnh quan khác nhau. Các nhà khoa học đã phát hiện ra bằng chứng cho thấy chúng sống ở tất cả các châu lục ngoại trừ Nam Cực và Úc. Loài này sống chủ yếu ở châu Phi, Âu Á và Bắc Mỹ. Ở đó, chúng kiếm ăn trên đồng cỏ rộng. Nhiều phân loài gomphotheres khác cũng được phát hiện ở khắp nơi trên thế giới, mỗi phân loài sẽ có một số sự thay đổi kiểu hình nhất định để phù hợp với môi trường và nhu cầu sinh sống của chúng.
Các vùng đất đã thay đổi trong hàng triệu năm mà gomphothere lang thang trên Trái Đất. Các loài động vật đã di cư, phát triển và tìm thấy lãnh thổ mới trong thời gian này.
Gomphotheres cũng vậy, chúng tìm đường di cư và sống ở Nam Mỹ vào đầu thế Pleistocene, khoảng 2,6 triệu năm trước thông qua qua eo đất Panama.
Gomphotheres thuộc họ Gomphotheriidae, hiện đã tuyệt chủng. Voi hiện đại là một phần của gia đình Elephantidae. Giờ đây, chỉ còn lại voi châu Á và voi châu Phi nhưng trong thời tiền sử, các thành viên khác bao gồm voi ma mút và các loại voi khác. Cả gomphotheres và voi hiện đại đều thuộc bộ Proboscidea. Chúng bao gồm các loài động vật có thân và ngà phát triển.
Không có nhiều thông tin về các loài động vật khác từng là mối đe dọa đối với gomphotheres. Do kích thước lớn của chúng, bất kỳ loài động vật nào khác muốn săn và giết một con gomphothere sẽ phải có kích thước lớn hơn, hoặc có răng, móng vuốt đủ dài và sắc nhọn để có thể làm cho chúng bị thương.
Tuy nhiên có thể chắc chắn được rằng một trong những mối đe dọa chính đối với loài vật này là sự thay đổi môi trường sống ảnh hưởng đến thói quen kiếm ăn của chúng. Vì chúng chỉ ăn một số loài thực vật nhất định nên khi những thức ăn này không còn nữa, gomphothere sẽ theo đó mà tuyệt chủng.
Gomphotheres cũng tồn tại cùng với con người sơ khai. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy bộ tộc người Clovis, một nhóm người săn bắt hái lượm đầu tiên ở Bắc Mỹ, đã săn lùng và giết gomphotheres.
Bộ lạc này sống cách đây khoảng 13.390 năm và tích cực săn bắt, giết và ăn gomphothere.
Loài nhện khổng lồ có kích thước bằng một con chó con Không giăng mạng, nhưng loài nhện khổng lồ này lại có rất nhiều "mánh khóe" để săn mồi. Arachnophobia hay còn gọi là hội chứng sợ nhện là một trong những nỗi sợ hãi phổ biến nhất mà con người mắc phải. Ngay cả những con nhện nhà nhỏ nhất, vô hại nhất cũng có thể khiến cho những người mắc phải hội...