Dùng thuốc trong tiêu chảy cấp và bệnh tả
Hiện trong nhiễm khuẩn tiêu chảy cấp có 15% do phẩy khuẩn tả. Bài viết trọng tâm đề cập đến thuốc, cách dùng trong bệnh tả, sau đó mới nói đến các tiêu chảy nhiễm khuẩn khác.
Thuốc và cách dùng trong bệnh tả
Tả do phẩy khuẩn tả Vibrio- Cholerae cổ điển, Vibrio-Cholerae týp ElTor gây ra. Tỷ lệ tử vong trước đây rất cao 72% (vụ dịch năm 1927). Sau này nhờ các phác đồ điều trị mới giảm xuống nhiều: 4,1% (vụ dịch năm 1964).
Độc tố hiện chưa khẳng định dứt khoát là nội độc tố (xuất hiện khi vi khuẩn dung giải) hay ngoại độc tố (vi khuẩn tiết ra) hoặc cả hai. Khó có kết quả xét nghiệm nhanh phẩy khuẩn tả khi mắc. Dựa vào triệu chứng để nhận biết, phân loại bệnh, dùng thuốc.
Thời kỳ khởi phát: khó xác định, hầu hết bệnh bắt đầu là bước ngay vào thời kỳ toàn phát: tiêu chảy, nôn. Có thể có sốt nhẹ, gai rét trên một số rất ít người.
Thời kỳ toàn phát: có 3 dấu hiệu rất rõ: tiêu chảy (phân toàn nước không có máu), nôn, mất nước điện giải (do cùng lúc vừa tiêu chảy vừa nôn). Nếu là tả điển hình thì phân không có máu, không có sốt (là dấu hiệu phân biệt với lỵ trực khuẩn, nhiễm Salmonella và sốt rét ác tính thể tả). Bù nước, điện giải là quan trọng nhất để cứu sống người bệnh. Căn cứ vào 4 độ mất nước có cách bù khác nhau:
Truyền dịch: Trong 30 phút đầu ở người lớn, 60 phút đầu ở trẻ em phải truyền được một lít. Tốc độ: Nếu huyết áp hạ thì 1lít truyền cho người lớn trong 90 phút và trẻ em trong 120 phút. Dung dịch truyền: Natri chlorua 0,9%. Khi có toan máu phải truyền thêm dung dịch natri bicarbonat 0,14% theo tỷ lệ 1/1.
Độ I: Mất nước từ từ (tiêu chảy, nôn nhẹ) khát nước, thân nhiệt bình thường, huyết áp không tụt. Điều trị ở nhà. Bù dịch bằng dung dịch oresol. Mỗi gói pha trong 1lít nước đun sôi để nguội. Trong 24 giờ: người lớn dùng 1-2 gói, trẻ em dùng 1/2 -1 gói
Độ II: Tiêu chảy, nôn nhiều. Khối lượng cơ thể giảm từ 3-5%. Da khô, nhăn nheo, mắt trũng, môi tím tái. Huyết áp thấp, tối đa chỉ trên 80mmHg. Mạch nhanh trên 100lần/phút. Điều trị tại trạm y tế xã. Phải truyền dịch nếu người bệnh không uống được hoặc số lần tiêu chảy tăng nhanh. Cần truyền dung dịch điện giải kết hợp uống oresol.
Độ III: Tiêu chảy, nôn rất nhiều lần. Khối lượng cơ thể giảm 10-15%, huyết áp thấp nhưng còn có thể đo được. Mạch nhanh và rất nhỏ. Vô niệu, tím tái, da bọc xương, thân nhiệt giảm. Tiến triển bệnh lệ thuộc vào: truyền kịp thời và đủ số lượng. Vì vậy phải truyền ở tất cả tĩnh mạch: cả hai chân, hai tay, hai bên cổ với tốc độ tối đa.
Video đang HOT
Độ IV: Huyết áp không đo được. Mạch nhanh và nhỏ rất khó bắt, da bọc xương. Truyền dịch khẩn trương như độ III. Phải chú ý toan huyết (truyền phối hợp natri chlorid 0,9% và natri bicarbonat 0,14% theo tỷ lệ 1/1).
Truyền dịch bảo đảm tốc độ. Khi truyền mà thấy huyết áp tăng dần, mạch bắt được là có hiệu quả. Tiếp tục truyền nhưng giảm tốc độ. Truyền cho đến khi huyết áp và mạch trở lại mức bình thường. Sau đó tiếp tục truyền và uống oresol trong 24 giờ nữa.
Kháng sinh: Dùng tetracyclin, cần dùng thật sớm. Liều trong 24 giờ, người lớn: 40mg/kg thể trọng, trẻ em: 10-15mg/kg thể trọng. Chia làm 4 lần uống trong ngày. Chỉ dùng 3-4 ngày. Dùng tetracyclin là đủ. Không cần dùng kháng sinh khác.
Thuốc trong tiêu chảy nhiễm khuẩn cấp
Khi nhiễm khuẩn, mỗi ngày đi ngoài trên 3 lần hoặc tối thiểu là 200g phân kéo dài dưới 14 ngày gọi là tiêu chảy nhiễm khuẩn cấp (TCNKC). Khoảng 50% trường hợp TCNKC là do virut và chỉ giới hạn trong 24 giờ, chỉ cần dựa vào triệu chứng lâm sàng, chữa triệu chứng, bệnh sẽ khỏi trước khi tìm nguyên nhân, không cần làm xét nghiệm. Khoảng 50% trường hợp TCCNK còn lại thường kèm theo sốt, có máu hoặc mủ trong phân là do nhiễm khuẩn. Các tác nhân gây ra các triệu chứng có khi không đặc trưng.
Dựa vào lâm sàng hoặc cần thiết thì làm xét nghiệm. Khi đã xác định đúng tác nhân gây bệnh thì phải dùng kháng sinh đặc hiệu. Nếu chỉ căn cứ vào một số triệu chứng không đầy đủ, tự ý dùng thuốc không đúng, bệnh không khỏi, gây kháng thuốc, đôi khi còn lây lan thành dịch. Nên khởi đầu bằng một kháng sinh thông thường, nếu không đáp ứng chuyển sang dùng ngay kháng sinh mạnh. Cách dùng thận trọng này giúp tránh kháng thuốc, tiết kiệm chi phí, dành kháng sinh dự trữ (để dùng đến khi cần đến)…
Thuốc chữa triệu chứng: Quyết định cho việc cứu sống người bệnh.
Bù nước và chất điện giải: Trường hợp mất nước, chất điện giải chưa nhiều, dùng dung dịch uống oresol. Trường hợp mất nước, chất điện giải nhiều phải dùng dung dịch tiêm truyền natri chlorua 0,9% hay dung dịch ringer lactat. Không chỉ bù đủ lượng mà còn phải bù kịp thời. Bù không kịp thời cho hiệu quả kém, thậm chí tử vong. Nhưng cũng không truyền thừa, truyền quá nhanh, vì sẽ gây rối loạn do thừa, hay gây sốc…
Dùng thuốc trợ tim mạch: Truyền dịch đã giúp ổn định tim mạch. Chỉ dùng khi cần thiết.
Các kháng sinh đặc hiệu:
Nhiễm Escherichia Coli: Với các chủng E. Coli thông thường, dùng bactrim, berberin.Trường hợp bị kháng, dùng fluoroquinolon. Với trường hợp E. Coli sinh độc tố shiga (0157: H7), không dùng kháng sinh vì chúng làm tăng sự phóng thích độc tố, gây chứng tán huyết – urê huyết cao.
Nhiễm Salmonella: Các chủng Salmonella thông thường (gọi chung là S.non-typhi) hay bị nhiễm vào thức ăn. Chỉ khi nhiễm một lượng lớn, sinh ra đủ độc tố mới gây nhiễm độc. Biểu hiện dữ dội (đau quặn bụng, đi ngoài nhiều lần, sốt). Nhưng khi tách khỏi nguồn lây (thức ăn) thì bệnh không nặng thêm. Chỉ dùng thuốc chữa triệu chứng. Với người khỏe mạnh, không cần thiết dùng kháng sinh. Với trẻ nhỏ tuổi, người già nếu cần thì dùng bactrim, nếu bị kháng dùng fluoroquinolon.
Nhiễm Shigella: Rất phổ biến, có thể dùng bactrim, negram (acid nalixidic), berberin. Trường hợp bị kháng, dùng fluoroquinolon.
Nhiễm campylo – bacter: Nhiễm do dùng thịt gia cầm chưa nấu chín. Với người còn khả năng miễn dịch, dùng erythromycin, nhưng phải sau 4 ngày, triệu chứng mới giảm. Nếu erythromycin bị kháng, dùng fluoroquinolon.
Nhiễm virut: Hay gặp nhất là nhiễm Rotavirus (ở trẻ nhỏ) và một số trường hợp nhiễm Norovirus ở trong các gia đình (nhiều hơn ở người lớn). Có thể phát thành dịch nhưng không nguy hiểm. Chỉ cần dùng thuốc chữa triệu chứng.
Điều trị tiêu chảy nhiễm khuẩn cấp thường ít ngày. Vì thế độc tính của thuốc ít thể hiện. Tuy nhiên cần lưu ý bactrim gây bí tiểu tiện, sỏi niệu, fluoroquinolon gây hại các khớp xương chịu lực. Người có thai 3 tháng đầu thai kỳ nên tránh dùng các thuốc này, trẻ em cần thận trọng khi dùng bactrim, nên tránh dùng fluoroquinolon.
Theo SKDS
Thường xuyên mất ngủ dễ mắc bệnh tim
Mất ngủ sẽ dẫn đến gia tăng nguy cơ mắc bệnh tim, đồng thời cũng là một trong những triệu chứng quan trọng của căn bệnh này.
Dựa theo báo cáo gần đây trên "Nhật báo Hoa Kỳ", Tiến sĩ Lars Eric Losand thuộc Đại học Khoa học và Công nghệ Nauy cùng cộng sự đã tiến hành nghiên cứu dài 11 năm về tình trạng giấc ngủ của gần 5,3 vạn tình nguyện viên gồm cả nam và nữ trong một chương trình điều tra sức khỏe mang tính quốc gia.
Nhóm nghiên cứu phát hiện ra, so với những người không gặp rắc rối về giấc ngủ, nguy cơ mắc bệnh tim của những tình nguyện viên thường xuyên mất ngủ tăng 45% nguy cơ mắc bệnh của người khó chìm vào giấc ngủ tăng 30%, người sau khi ngủ dậy vẫn thấy mệt mỏi thì nguy cơ mắc bệnh tim tăng 27%.
Những người gặp rắc rôi vê giâc ngủ nguy cơ mắc bênh tim rât cao
Theo Tiến sĩ Losand, nghiên cứu đã làm sáng tỏ mối quan hệ mật thiết giữa chứng mất ngủ và bệnh tim. Tình trạng mất ngủ sẽ ảnh hưởng đến thể trạng của toàn cơ thể, thậm chí trực tiếp ảnh hưởng đến huyết áp và các tình trạng viêm sưng.
Mất ngủ dẫn đến huyết áp tăng cao, tỷ lệ viêm sưng cũng gia tăng, từ đó dễ dẫn đến tổn hại hệ thống mạch máu, tăng nguy cơ đột quỵ và bệnh tim. Tiến sĩ cũng khuyến nghị, người mất ngủ mãn tính nên đến bệnh viện để trực tiếp kiểm tra toàn diện, loại trừ các nguyên nhân bệnh lý từ trước, nếu bỗng dưng xuất hiện vấn đề rối loạn giấc ngủ, cần sớm đi trị liệu.
Theo Khánh Chi (An ninh thủ đô)
Phòng bệnh tiêu chảy cấp do virut Rota Virut Rota là tác nhân gây tiêu chảy cấp nặng thường gặp nhất ở trẻ nhỏ trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Virut Rota là loại virut siêu vi có thể sống lâu trong môi trường nên có khả năng lây nhiễm rất cao. Chúng tấn công nhanh vào hệ tiêu hóa còn non yếu của trẻ, gây tiêu chảy nặng,...











Tiêu điểm
Tin đang nóng
Tin mới nhất

Những ảnh hưởng liên quan đến não của thuốc thông mũi

Mẹ bầu bị béo phì có ảnh hưởng đến sự phát triển của em bé không?

Phụ nữ tiểu đường cần có chế độ sinh hoạt và ăn uống như thế nào?

Muốn biết người già có sống thọ hay không hãy nhìn 4 dấu hiệu sau

Ai không nên uống nước ép củ dền đỏ?

Loại quả thuộc nhóm "tốt nhất thế giới" - Việt Nam đâu cũng có

Nguyên tắc trong chế độ ăn với người mắc bệnh 'bò điên' Creutzfeldt-Jakob biến thể

5 món tuyệt đối không nên ăn vào buổi tối

Khuyên lưỡi rơi vào dạ dày khi ăn cơm

Bé trai 6 tuổi nguy kịch vì điện giật khi đang chơi đùa

5 không khi ăn xôi

Bé gái phổi đông đặc do mắc cúm A và sởi: vì sao bệnh sởi ở trẻ có diễn biến nhanh và nặng?
Có thể bạn quan tâm

Diện tích băng biển toàn cầu thấp kỷ lục vào tháng 2
Thế giới
17:03:38 06/03/2025
Người mang dòng máu quý hiếm nhất thế giới qua đời
Lạ vui
16:36:19 06/03/2025
Quý Bình: Sự nghiệp vẻ vang toàn phim hay xuất sắc, cuối đời lại không thể tự nhận lấy vinh quang
Hậu trường phim
16:24:25 06/03/2025
Hotboy ĐT Việt Nam tuổi trẻ tài cao: 28 tuổi lái siêu xe, sở hữu biệt thự to nhất phố
Sao thể thao
16:14:04 06/03/2025
Phi Thanh Vân được bạn trai hơn 10 tuổi 'hộ tống' đi sự kiện
Sao việt
16:04:17 06/03/2025
Ana de Armas thu hút nhiều ngôi sao Hollywood trong đó có Tom Cruise
Sao âu mỹ
16:01:06 06/03/2025
Vụ tố tiểu quách giá cao: Thêm nhiều người bất bình, người tố cáo bức xúc về câu trả lời
Tin nổi bật
14:25:20 06/03/2025
Phó Thủ tướng gửi thư khen Công an Đắk Lắk liên tiếp triệt phá 3 chuyên án lớn
Pháp luật
14:14:39 06/03/2025