Dự đoán giả.i thưởn.g Quả cầu vàng 2015 trước giờ G
Giả.i thưởn.g phim ảnh nổi tiếng của Hiệp hội báo chí nước ngoài Hollywood sẽ diễn ra trong sáng ngày 12/1 theo giờ Việt Nam, hứa hẹn nhiều bất ngờ cho tới phút chót.
Giả.i thưởn.g phim ảnh của Hiệp hội báo chí nước ngoài Hollywood được tổ chức thường niên vào tháng 1 hàng năm luôn được coi là bước ngoặt quan trọng hướng tới sự kiện Oscar diễn ra sau đó. Có một thực tế rằng giả.i thưởn.g Quả cầu vàng luôn rất khó đoán và thường hay đem tới những bất ngờ cho người hâm mộ vào đúng phút chót. Đáng chú ý, trong hai năm gần đây nhất, phim giành giải Phim truyện xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch của Quả cầu vàng đều chiến thắng tại Oscar sau đó. Đó là trường hợp của Argo năm 2013 và 12 Years a Slave năm 2014.
Năm bộ phim tranh giải Phim truyện xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch (từ trái qua phải):Boyhood, Foxcatcher, The Imitation Game, Selma và The Theory of Everything.
Trong năm 2015, ứng cử viên lớn nhất trong cuộc đua tới danh hiệu Quả cầu vàng ở hạng mục quan trọng này là Boyhood, bộ phim mất 12 năm để thực hiện của đạo diễn Richard Linklater, xoay quanh quá trình trưởng thành của cậu bé Mason do Ellar Coltrane thủ vai.
Giống như Boyhood, các đối thủ còn lại của bộ phim đều xoay quanh một chuyến hành trình nào đó. Với Selma, đó là hành trình tìm kiếm sự công bằng cho người Mỹ gốc Phi tại Hoa Kỳ của mục sư Martin Luther King Jr.; với Foxcatcher, đó là hành trình tới giấc mộng vàng trong bộ môn đấu vật song lại kết thúc trong một bi kịch không tưởng; với The Imitation Game, đó là hành trình chế tạo ra cỗ máy Christopher để chống lại mật mã Enigma của nhà toán học thiên tài đồng tính Alan Turing. VớiThe Theory of Everything, đó là hành trình cuộc đời với nhiều nỗi đau và mất mát của khoa học gia thiên tài Stephen Hawking, cùng bài học về tình yêu con người.
Năm bộ phim tranh giải Phim truyện xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc (từ trái qua phải): Birdman, The Grand Budapest Hotel, Into the Woods, Pride và St. Vincent.
Song, đối thủ lớn nhất của Boyhood trong cuộc đua hướng tới Oscar 2015 lại không nằm cùng hạng mục tại Quả cầu vàng 2015. Câu chuyện về người diễn viên hết thời Riggan Thomson do Michael Keaton thủ vai lại ganh đua ở hạng mục Phim truyện xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc. Đây là tác phẩm được giới phê bình đán.h giá rất cao, thể hiện qua tổng cộng bảy đề cử Quả cầu vàng năm nay.
Các bộ phim Pride, St. Vincent hay Into the Woods, dù có những nét đặc sắc riêng nhưng rất khó có thể làm nên chuyện trước Birdman quá xuất sắc. Tác phẩm duy nhất có thể gây bất ngờ trước Birdman tại Quả cầu vàng 2015 chỉ có thể là The Grand Budapest Hotel, bộ phim được cho là hay nhất trong sự nghiệp của đạo diễn Wes Anderson từ trước tới nay, dù khả năng này cũng không phải là quá cao.
Một trong những hạng mục gây được nhiều sự chú ý nhất tại Quả cầu vàng 2015 là Nam diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch. Tại đây, có tới bốn diễn viên hóa thân thành các nhân vật có thật trong lịch sử và chỉ có một là hư cấu. Nhân vật hư cấu duy nhất chính là gã phóng viên tự do Lou Bloom trong Nightcrawler của Jake Gyllenhaal.
Từ trái qua phải: Steve Carell trong Foxcatcher, Benedict Cumberbatch trong The Imitation Game, Jake Gyllenhaal trong Nightcrawler, David Oyelewo trong Selma và Eddie Redmayne trong The Theory of Everything.
Dù tương đối xuất sắc, nhưng tài tử của Brokeback Mountain xem ra khá lép vế trước những ứng viên còn lại. Đó là David Oyelewo thủ vai mục sư Martin Luther King Jr. trong Selma, tác phẩm mang ý nghĩa thời sự cao về nạn phân biệt chủng tộc; đó là Steve Carell xuất thần và lột xác trong vai tỷ phú John du Pont của Foxcatcher; đó là Eddie Redmayne hóa thân thành Stephen Hawking trong The Theory of Everything, một vai diễn đòi hỏi rất nhiều cố gắng cả về hình thể lẫn diễn xuất; và đó là Benedict Cumberbatch trong vai người hùng Alan Turing của The Imitation Game, một “bản sao” của Sherlock Holmes ở Sherlock mà tài tử vốn đã quá quen thuộc và xuất sắc. Trong số này, hai tài tử người Anh là Eddie Redmayne và Benedict Cumberbatch đang giữ ưu thế và dù cho ai giành chiến thắng trong đêm ngày 11/1, cuộc đua giữa họ tới giải Oscar sẽ vẫn còn rất khó lường.
Từ trái qua phải: Ralph Fiennes trong The Grand Budapest Hotel, Michael Keaton trongBirdman, Bill Murray trong St. Vincent, Joaquin Phoenix trong Inherent Vice và Christoph Waltz trong Big Eyes.
Cũng giống như hạng mục Phim truyện xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc, giả.i thưởn.g dành cho Nam diễn viên chính của thể loại này gần như chắc chắn thuộc về Michael Keaton của Birdman. Đây cũng mới chỉ là đề cử Quả cầu vàng thứ hai trong sự nghiệp của ông. “Chú ngựa ô” của hạng mục là Ralph Fiennes từ The Grand Budapest Hotelnhưng khả năng chiến thắng là tương đối mong manh. Các ứng viên còn lại gồm Christoph Waltz của Big Eyes, Bill Murray của St. Vincent và Joaquin Phoenix của Inherent Vice giống như những “kẻ lót đường” dù cho họ cũng sở hữu những vai diễn ít nhiều ấn tượng.
Từ trái qua phải: Jennifer Aniston trong Cake, Felicity Jones trong The Theory of Everything, Julianne Moore trong Still Alice, Rosamund Pike trong Gone Girl và Reese Witherspoon trong Wild.
Video đang HOT
Trong cuộc đua tới danh hiệu Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của thể loại chính kịch, ưu thế dành cho Julianne Moore với vai diễn nữ giáo sư bị mắc chứng Alzheimer trong Still Alice vẫn được giữ nguyên cho tới giờ G trước lễ trao giải. Đối thủ của cô trong cuộc đua là Reese Witherspoon trong Wild, Rosamund Pike trong Gone Girl, Felicity Jones trong The Theory of Everything và Jennifer Aniston trong Cake. Trong những tuần gần đây, Cake và Jennifer Aniston liên tục xuất hiện trên các mặt báo với nhiều lời ngợi khen; tuy nhiên, hiệu ứng của chúng có thể chưa kịp “phát tác” tại ngay Quả cầu vàng mà phải chờ đến tận Oscar.
Từ trái qua phải: Amy Adams trong Big Eyes, Emily Blunt trong Into the Woods, Julianne Moore trong Maps to the Stars, Quvenzhane Wallis trong Annie và Helen Mirren trong The Hundred-Foot Journey.
Không chỉ có đề cử ở thể loại chính kịch, Julianne Moore cũng có tên ở danh sách tranh tài cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc. Trên thực tế, cả năm vai diễn ở hạng mục này đều được đán.h giá ngang nhau và không có một ai nổi trội hoàn toàn trước giờ trao giải. Ngoài Julianne Moore trong Maps to the Stars, các ứng viên còn lại của hạng mục là bé Quvenzhane Wallis của Annie, bộ phim bị giới phê bình lạnh nhạt; Amy Adams của Big Eyes, tác phẩm mới nhất của Tim Burton cũng từng nhận phải nhiều nhận xét trái chiều; Emily Blunt của Into the Woods, bộ phim ca vũ nhạc mới của hãng Disney; và Helen Mirren từ bộ phim lấy đề tài ẩm thực The Hundred-Foot Journey.
Từ trái qua: đạo diễn Wes Anderson (The Grand Budapest Hotel), Ava DuVernay (Selma), David Fincher (Gone Girl), Alejandro González Iárritu (Birdman) và Richard Linklater (Boyhood).
Bỏ qua nhiều tên tuổ.i đình đám như Ridley Scott, Angelina Jolie hay Clint Eastwood, Hiệp hội báo chí nước ngoài Hollywood từng gây bất ngờ với danh sách đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất. Dẫu vậy, cuộc đua chủ yếu sẽ chỉ diễn ra giữa Richard Linklater của Boyhood và Alejandro González Iárritu của Birdman. Người chiến thắng tại đây hẳn sẽ giành không ít lợi thế tại Oscar 2015 diễn ra vào trung tuần tháng 2. Ngoài ra, trong hạng mục này còn một cái tên đáng chú ý khác là Ava DuVernay của Selma, bởi đây mới là nữ đạo diễn da màu đầu tiên trong lịch sử được nhận đề cử Quả cầu vàng.
Dự đoán các hạng mục giả.i thưởn.g Quả cầu vàng 2015 của Zing.vn:
Phim truyện xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch: Boyhood
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch : Benedict Cumberbatch trong The Imitation Game
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch : Julianne Moore trong Still Alice
Phim truyện xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc: Birdman
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc: Michael Keaton trong Birdman
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc: Amy Adams trong Big Eyes
Đạo diễn xuất sắc nhất: Richard Linklater với Boyhood
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất: J.K. Simmons trong Whiplash
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất : Patricia Arquette trong Boyhood
Kịch bản xuất sắc nhất: Wes Anderson với The Grand Budapest Hotel
Phim hoạt hình xuất sắc nhất: The LEGO Movie
Phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất: Ida, Ba Lan
Ca khúc chủ đề trong phim xuất sắc nhất: Big Eyes trong Big Eyes (Lana Del Rey)
Nhạc nền trong phim xuất sắc nhất: Alexandre Desplat với The Imitation Game
Phim truyền hình xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch: House of Cards
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch: Kevin Spacey trongHouse of Cards
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại chính kịch: Viola Davis trong How to Get Away with Murder
Mini-series hoặc Phim nhựa truyền hình xuất sắc nhất: True Detective
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất – Mini-series hoặc Phim nhựa truyền hình: Matthew McConaughey trong True Detective
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất – Mini-series hoặc Phim nhựa truyền hình :Frances McDormand trong Olive Kitteridge
Phim truyền hình xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch: Orange Is the New Black
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch: William H. Macy trongShameless
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất – Thể loại hài kịch : Taylor Schilling trongOrange Is the New Black
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất trên sóng truyền hình : Bill Murray trong Olive Kitteridge
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất trên sóng truyền hình: Kathy Bates trongAmerican Horror Story: Freak Show
Theo Zing
'Pride'- Bộ phim đề tài đồng tính hay nhất 2014
Bộ phim "Pride" đến từ điện ảnh nước Anh của đạo diễn Matthew Warchus mang màu sắc tươi sáng, lạc quan, đem đến cho khán giả một cái nhìn khác về người đồng tính.
Dựa trên sự kiện lịch sử có thật diễn ra tại nước Anh dưới thời nữ thủ tướng Margaret Thatcher, Pride kể về một nhóm người đồng tính ở London, đứng ra quyên góp và ủng hộ công khai những người công nhân mỏ đình công chống chính phủ trong suốt những năm 1984-1985.
Bộ phim đề tài đồng tính Pride được dựa trên một sự kiện có thật trong lịch sử hiện đại Anh quốc.
Vụ đình công này trở thành cuộc xung đột xã hội lớn nhất trong lịch sử hiện đại nước Anh với ba người thiệ.t mạn.g, 20.000 người bị thương và hơn 10.000 vụ bắt giữ. Cũng vì sự kiện này mà "bà đầm thép" Margaret Thatcher từng phải hứng chịu rất nhiều búa rìu dư luận. Sự phẫn nộ của những người công dân mỏ cũng như tinh thần nổi loạn của cộng đồng người đồng tính được đạo diễn Matthew Warchus thể hiện khá mạnh tay trong bộ phim của ông nhằm phản ánh một thời kỳ hỗn loạn trong lịch sử nước Anh.
Đề tài về người đồng tính tuy không còn quá mới mẻ nhưng vẫn tỏ ra hết sức đặc biệt qua cách xử lý của đạo diễn Matthew Warchus với Pride. Khai thác một câu chuyện có thật, chân dung nhiều nhân vật có thật trong lịch sử, Pride không kể về những điều viển vông, xa xôi. Mỗi số phận, mỗi cuộc đời được vinh danh trong phim đều gắn liền với một phần lịch sử nước Anh qua những bước thăng trầm, sóng gió.
Để có được chất liệu chân thực và phong phú cho bộ phim, đạo diễn Matthew Warchus và biên kịch Stephen Beresford tới gặp gỡ và phỏng vấn trực tiếp những nhâ.n chứn.g sống của thập niên 1980. Một số người đồng tính đã qua đời vì căn bệnh HIV, nhưng hầu hết như những người còn lại đều tỏ ra rất hào hứng và xúc động khi hồi tưởng và kể lại sự kiện này.
Pride đem đến một góc nhìn mới về người đồng tính, khi đạo diễn không muốn biến họ thành những số phận đặc biệt, mà chỉ coi tất cả như một cộng đồng chung, với những mục đích chung bên cạnh người bình thường.
Không chỉ tái hiện lịch sử, Pride còn được đán.h giá cao bởi ý nghĩa xã hội và tính nhân văn khi đem đến một góc nhìn khác về những người đồng tính. Nếu như hầu hết các bộ phim đồng tính đình đám trước đây như Brokeback Mountain hay Blue is the Warmest Color đều tập trung vào cuộc đời, số phận của những cá nhân, thì Pride lại mô tả chân dung của cả một cộng đồng, một tập thể các cá nhân gay và lesbian. Ở đó, không có bi kịch cá nhân nào lớn hơn tinh thần tập thể, không có nỗi mặc cảm thân phận nào lớn hơn tinh thần xả thân vì cộng đồng.
Lần đầu tiên, những người đồng tính bước lên màn ảnh như những công dân bình thường, có hoài bão, ước mơ, lý tưởng và lòng nhân hậu. Nếu như nhiều đạo diễn khác từng cố tìm cách chứng minh rằng những người đồng tính khác biệt với một đời sống tâm sinh lý bất bình thường, những bi kịch cá nhân khó chia sẻ, thì Matthew Waschus dường như cố gắng đi ngược lại điều đó. Các nhân vật của Pride không sống và đấu tranh cho tình yêu của thế giới thứ ba. Cuộc đấu tranh lớn lao và ý nghĩa hơn cả đối với họ chính là cuộc đấu tranh nhân quyền, chiến đấu vì những người thợ mỏ dưới ách áp bức của chính phủ Thatcher.
Trường đoạn những công nhân mỏ và người trẻ đồng tính cùng đứng bên nhau, đồng ca ca khúc Bread and Roses, bài hát nổi tiếng ngợi ca tinh thần đấu tranh cho bình đẳng giới, là một trong những cảnh phim thể hiện được tính nhân văn, tinh thần đoàn kết của bộ phim. Dù mang giới tính nào, dù xuất phát từ tầng lớp khác nhau ra sao, những công dân Anh quốc bé nhỏ đã thực sự đứng bên nhau, đấu tranh cho bánh mì, cho hoa hồng và cho một xã hội bình đẳng, bác ái, tự do.
Bộ phim hội tụ nhiều nhân vật với các tính cách khác nhau, tạo ra một bức tranh sặc sỡ như lá cờ của cộng đồng LGBT.
Matthew Warchus cũng tỏ ra may mắn khi hội tụ được một dàn diễn viên không quá ngôi sao để câu chuyện trở nên gần gũi, chân thật nhưng cũng không quá hời hợt, suồng sã để khán giả mau chóng lãng quên. Một Bill Nighy kiệm lời, nhút nhát, một Paddy Considine lém lỉnh, thông minh hay một George MacKay ngờ nghệch, lơ đãng... tất cả đã làm nên một bức tranh phong phú, sặc sỡ các mảng màu như lá cờ của cộng đồng LGBT.
Phần nhạc phim được xử lý khá tinh tế, các bài hát được lựa chọn theo dòng lịch sử cũng là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên không khí của bộ phim. Đặc biệt, bài hát For a Friend được viết bởi những người bạn trong ban nhạc The Communards dành tặng riêng Mark Ashton, chàng trai trẻ qua đời năm 26 tuổ.i vì căn bệnh thế kỷ HIV sau những đấu tranh kiên trì, bền bỉ cho nhân quyền, cũng được sử dụng làm khúc ca thiêng liêng khép lại cả bộ phim. Cái kết đầy lạc quan, tươi sáng trên nền nhạc rộn rã, huy hoàng thực sự để lại những dư âm khó quên trong lòng người xem Pride.
"I am disecretely" (tạm dịch: Tôi khác biệt), thông điệp giản dị Mark trao cho Joe vào phút cuối của bộ phim cũng chính là thông điệp ý nghĩa về niềm kiêu hãnh mà đạo diễn Matthew Warchus muốn gửi tới những người thuộc thế giới thứ ba. Pride không phải là bộ phim sẽ ám ảnh người xem nhiều như Blue is the Warmest Color hay Xuân quang xạ tiết, nhưng những cảm xúc bộ phim mang đến hẳn sẽ khiến khán giả liên tưởng đến hoa hồng nhiều hơn là bánh mỳ, dù ngày mai có ra sao đi chăng nữa.
Trailer bộ phim 'Pride'
Tại giả.i thưởn.g Quả cầu vàng 2015, Pride nhận được một đề cử ở hạng mục Phim truyện xuất sắc nhất - Thể loại hài kịch hoặc ca vũ nhạc. Trước đó, Pride từng giành ba giải của giả.i thưởn.g Phim độc lập Anh quốc, trong đó có hạng mục Phim độc lập Anh quốc hay nhất.
Zing.vn đán.h giá: 4/5
Theo Zing
15 điều thú vị từ danh sách đề cử Quả cầu vàng 2015 Giả.i thưởn.g phim ảnh thường niên của Hiệp hội báo chí nước ngoài Hollywood sắp sửa diễn ra vào ngày 11/1 tới chứa đựng nhiều điều thú vị xung quanh danh sách đề cử. Meryl Streep thường được nhắc đến với lượng đề cử Oscar kỷ lục lên đến con số 18. Tuy nhiên, bà thậm chí còn làm được nhiều hơn thế...