Dự án điệp viên mèo triệu USD của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh
Cục Tính báo Trung ương Mỹ ( CIA) chi tới 20 triệu USD cho việc cấy ghép thiết bị gián điệp lên mèo để do thám Liên Xô nhưng không mang lại kết quả.
Các thiết bị cảm biến trên mèo sẽ ghi âm cuộc trò chuyện từ xa. Ảnh: Imgsafe.
Sau Thế chiến II, căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô gia tăng, khiến hai siêu cường này luôn tìm cách để giành lợi thế trước đối phương. Không chỉ chạy đua về công nghệ và vũ khí, họ còn tạo ra các phương thức gián điệp độc đáo, trong đó có việc biến các loài động vật thành điệp viên, theo War History Online.
Tài liệu giải mã của Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ năm 2001 đã tiết lộ một dự án bí mật của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) mang tên “Mèo nghe lén” (Ascoustic Kitty), được tiến hành trong thập niên 1960.
Năm 1961, Phòng nghiên cứu và phát triển của CIA bắt đầu triển khai dự án này. Mèo được chọn vì đây là động vật nhỏ, có thể di chuyển lặng lẽ mà không thu hút sự chú ý. CIA đưa ra ý tưởng gắn một cục pin, máy ghi âm, ăng ten và thiết bị truyền dẫn lên những con mèo để chúng do thám Liên Xô.
Các thiết bị như vậy phải đủ nhỏ để không gây nghi ngờ, chịu được sự cọ sát hoặc liếm. Ngoài ra, các yếu tố hóa học, độ ẩm, thân nhiệt và tính tò mò của loài mèo cũng được tính đến.
Việc đưa các trang bị vào vòng cổ mèo không khả thi, do trình độ công nghệ lúc bấy giờ còn sơ khai. Mỹ quyết định cấy chúng vào trong thân mèo. CIA đã thuê một chuyên gia âm thanh để tiến hành công việc, nhưng không tiết lộ mục đích sử dụng. Sau vài lần kiểm tra trên mô hình, họ bắt đầu thử nghiệm trực tiếp trên thân mèo.
Bộ phận truyền dẫn dài 19 mm được cấy ghép vào đáy hộp sọ mèo, cùng một microphone trong ống tai, pin điện được đặt trong khoang ngực. Đoạn dây lưới đóng vai trò ăng ten được kéo từ gáy đến đuôi và ẩn trong lông mèo.
Bản thiết kế hệ thống do thám của dự án “Acoustic Kitty”. Ảnh: War History Online.
Video đang HOT
Nhóm mèo thí nghiệm được giám sát để xem cách phản ứng với thiết bị, đảm bảo chúng thấy thoải mái và di chuyển bình thường để không gây chú ý. Lo ngại bị công chúng phát hiện và phản ứng tiêu cực, CIA điều chỉnh thiết bị để cuộn dây ăng ten không buộc vào cổ mèo. Thay vào đó, chúng được cấy dọc theo cột sống.
Giai đoạn cuối là huấn luyện nhóm mèo điệp viên, khiến chi phí cho toàn bộ dự án lên tới 20 triệu USD.
Năm 1966, mèo được huy động thực hiện nhiệm vụ đầu tiên ở thủ đô Washington DC. Mục tiêu là hai người đàn ông ngồi bên ngoài đại sứ quán Liên Xô. Một con mèo được thả xuống từ xe tải chứa nhiều thiết bị do thám điện tử và các nhân viên tình báo sẵn sàng tiếp nhận tín hiệu được con mèo thu lại.
Nhưng khi băng qua đường để tiếp cận mục tiêu, con mèo bị một chiếc taxi cán phải, công sức đầu tiên của CIA tan thành mây khói. Tuy nhiên, kết quả nhiệm vụ cho thấy điệp viên mèo có thể tập trung vào mục tiêu mà không bị xao nhãng.
Năm 2013, Robert Wallace, cựu giám đốc phòng kỹ thuật của CIA tiết lộ con mèo đó không chết. Nó được mang về để công nghệ nghe lén không bị rơi vào tay người khác. Các trang thiết bị do thám trên thân mèo được gỡ bỏ, sau đó nó được trả về cuộc sống đời thường.
CIA đã tốn tới 20 triệu USD mà không mang lại kết quả nào. Dự án bị hủy năm 1967, CIA chuyển sang sử dụng robot cỡ nhỏ và máy bay do thám của Cơ quan Quản lý các Dự án Nghiên cứu Cao cấp Bộ Quốc phòng Mỹ (DARPA).
Duy Sơn
Theo VNE
Chiến dịch tình báo tốn kém nhất thời Chiến tranh Lạnh
Những năm 1970, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) chi 800 triệu USD để trục vớt tàu ngầm Liên Xô gặp nạn trong chiến dịch bí mật và tốn kém nhất thời Chiến tranh Lạnh.
Chiến tranh Lạnh, cuộc đối đầu giữa 2 siêu cường Mỹ - Liên Xô kéo dài từ khoảng năm 1946 đến 1991. Cuộc chiến không tiếng súng nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Hai nước đẩy mạnh chạy đua vũ trang nhằm chiếm ưu thế trước đối thủ.
Trong bối cảnh chạy đua vũ trang căng thẳng đó, tìm hiểu về các chương trình vũ khí mới của đối phương để đưa ra giải pháp đối phó phù hợp trở thành nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) gần như được dành mọi đặc quyền để giúp Mỹ có thể nắm thông tin tình báo về chương trình phát triển vũ khí và sức mạnh quân sự của Liên Xô.
Dự án Azorian
Theo trang web chính thức của CIA, năm 1968, tàu ngầm K-129 lớp Golf II của Liên Xô bất ngờ gặp nạn và chìm ở vị trí cách khoảng 1.600 hải lý (3.000 km), ngoài khơi bờ biển Hawaii, Mỹ. Lực lượng tìm kiếm và cứu hộ Liên Xô gần như bất lực trong việc xác định vị trí tàu K-129 gặp nạn.
Khi gặp nạn, K-129 mang theo 3 tên lửa đạn đạo tầm trung R-21 (SS-N-4) có khả năng mang đầu đạn hạt nhân. Việc Liên Xô từ bỏ nỗ lực tìm kiếm tàu ngầm K-129 đã mở ra cơ hội lớn cho phía Mỹ. Nhận thức được giá trị tình báo to lớn nếu trục vớt được tàu ngầm gặp nạn để tìm hiểu về vũ khí chiến lược của Liên Xô, CIA phối hợp với Lầu Năm Góc bí mật tiến hành chiến dịch trục vớt tàu ngầm Liên Xô với mật danh "Dự án Azorian".
Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên là xác định được vị trí chìm của tàu ngầm K-129. USS Halibut, tàu ngầm gián điệp tinh vi của Mỹ, được lệnh tìm kiếm con tàu của Liên Xô.
Halibut được trang bị các phương tiện tìm kiếm và cứu hộ biển sâu hiện đại. Nó đi vào khu vực nghi tàu ngầm Liên Xô chìm và triển khai tàu ngầm không người lái điều khiển từ xa (ROV) để tìm kiếm. Đội ngũ tìm kiếm chụp khoảng 20.000 bức ảnh và đã xác định được vị trí chìm của tàu ngầm Liên Xô.
Vị trí tàu ngầm K-129 bị chìm. Đồ họa: FOIA.
K-129 chìm ở độ sâu 4.800 m, cách 1.560 hải lý (2.900 km) về phía tây bắc Hawaii. Trục vớt tàu ngầm có trọng lượng khoảng 1.750 tấn là điều chưa có tiền lệ. Các kỹ sư và chuyên gia của CIA phải đối mặt với thách thức vừa phải trục vớt thành công vừa phải đảm bảo bí mật tuyệt đối.
Năm 1970, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, các kỹ sư CIA quyết định sử dụng giải pháp chế tạo bộ móc khổng lồ kiểu "xương cá". Bộ móc sẽ được thả xuống vị trí tàu ngầm K-129, sau đó, các cánh tay thủy lực sẽ ngoạm vào thân tàu để kéo nó lên.
Để che đậy việc trục vớt, CIA trưng dụng tàu Glomar Explorer chuyên thăm dò khoáng sản biển sâu thuộc sở hữu của tỷ phú Howard Hughes, Chủ tịch Summa Corporation. Sứ mệnh cứu hộ được ngụy trang dưới vỏ bọc thăm dò mangan.
Phần đáy tàu được cắt một khoang lớn chứa thiết bị trục vớt. Khoang có cửa để đóng lại trong quá trình di chuyển. Toàn bộ nhiệm vụ cứu hộ được thực hiện bên dưới thân tàu thương mại cho phép qua mặt mọi phương tiện giám sát từ vệ tinh, máy bay, hay tàu mặt nước gần đó.
Dự án tốn kém nhất lịch sử
Ngày 4/7/1974, tàu Glomar Explorer tiếp cận vị trí chìm của K-129. Module cứu hộ được triển khai xuống vị trí và ngoạm thành công vào tàu gặp nạn. Tuy nhiên, trong quá trình kéo lên, móc nâng bị gãy khiến tàu ngầm K-129 bị vỡ và 2/3 bộ phận trục vớt được đã chìm trở lại xuống biển.
Module cứu hộ được ngụy trang kín đáo bên dưới thân tàu. Ảnh: Collider
Phần còn lại mà đội cứu hộ kéo lên được có 6 thi thể thủy thủ Liên Xô. CIA chuẩn bị nhiệm vụ cứu hộ thứ 2 để trục vớt phần còn lại. Tuy nhiên, sự cố hy hữu xảy ra khiến chương trình có nguy cơ bị lộ. Tháng 6/1974, trước thời điểm trục vớt, kẻ trộm đột nhập văn phòng Summa Corporation đánh cắp tài liệu bí mật về việc cho CIA thuê tàu Glomar Explorer.
CIA phối hợp với Cục Điều tra Liên bang (FBI) cùng sở cảnh sát Los Angeles truy bắt tên trộm để lấy lại tài liệu. Cuộc điều tra của FBI và cảnh sát đã thu hút sự chú ý của dư luận và giới truyền thông rộ lên tin đồn về câu chuyện giật gân.
Giám đốc CIA lúc đó là William E. Colby kêu gọi các cá nhân biết về Dự án Azorian giữ bí mật tuyệt đối. Tuy nhiên, tháng 2/1975, Los Angeles Times đăng bài viết xâu chuỗi từ vụ trộm ở Summa đến nhiệm vụ bí mật của CIA.
Sau đó, phóng viên điều tra Jack Anderson phá tan sự im lặng. Ông tuyên bố trên truyền hình quốc gia rằng các chuyên gia hải quân nói tàu ngầm Liên Xô bị chìm không chứa bí mật đáng kể nào và dự án trục vớt nó là sự lãng phí tiền của người nộp thuế.
Ngay sau đó, phóng viên tràn ngập khu vực cảng Long Beach, nơi tàu Glomar chuẩn bị cho sứ mệnh thứ hai. Chính quyền Tổng thống Richard Nixon không bình luận về vụ việc nhưng Liên Xô đã phát hiện được nhiệm vụ thực sự của tàu Glomar và điều động tàu đến bảo vệ khu vực K-129 bị chìm.
Do tính bí mật của dự án không còn, Nhà Trắng chính thức hủy bỏ việc trục vớt. Dự án Azorian không thành công về mặt tình báo nhưng đã tạo ra bước đột phá về kỹ thuật trong cứu hộ biển sâu. Nó mở đường cho sự phát triển của công nghệ khai thác khoáng sản ở độ sâu lớn.
Chính phủ Mỹ đã chi tới 800 triệu USD (tương đương với 3,8 tỷ USD theo tỷ giá năm 2016) cho Dự án Azorian, khiến nó trở thành chiến dịch tình báo phản gián tốn kém nhất lịch sử Chiến tranh Lạnh.
(Theo Zing News)
Cảnh hoang tàn trong nghĩa địa tàu ngầm Liên Xô tại Bắc Cực Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nga không có đủ nguồn tài chính để duy trì sự hoạt động và buộc phải loại khỏi biên chế nhiều tàu ngầm từ thời Liên Xô. Một căn cứ hải quân cũ thời Liên Xô nằm trên bán đảo Kola, tây bắc Nga thuộc Bắc Cực hiện là nơi "neo đậu" nhiều tàu ngầm đã...