Đợt lũ lụt lịch sử: Thủy điện không phải là nguyên nhân
Lũ lụt miền Trung nước ta đang gây ra những thiệt hại rất lớn về người và của. Trong đó, đau thương nhất là các vụ sạt lở đất gần và ngay tại thủy điện Rào Trăng 3 làm 17 công nhân và 13 cán bộ, chiến sĩ thuộc đoàn cứu hộ bị vùi lấp mất tích.
Cả nước đang đóng góp, cùng đồng bào miền Trung vượt qua những thời điểm đau thương, khó khăn này.
Theo các chuyên gia, các đập thủy điện tác động tới môi trường, nhưng không làm tăng rủi ro lũ lụt.
Trong thời gian vừa qua có rất nhiều ý kiến cho rằng xả lũ của thủy điện là nguyên nhân gây lũ chồng lũ, làm gia tăng ngập lụt, kéo theo đó là những thiệt hại về người và của. Có đúng như vậy không?
Là một người từng có 6 năm dạy môn Kỹ thuật môi trường sông ở Đại học Saitama, Nhật Bản và nằm trong nhóm chuyên gia quản lý các hồ chứa khu vực Kanto của Nhật Bản, cũng như bản thân đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, tôi muốn đóng góp ý kiến để làm sang tỏ vấn đề “thủy điện có gây thêm lũ?”.
Năm 2010, Nhóm Công tác châu Âu về đập và lũ lụt đã xuất bản một báo cáo đánh giá khả năng giảm nhẹ lũ lụt của đập và trên cơ sở tính toán về mức độ giảm nhẹ lũ lụt của tất cả các nước châu Âu (https://cnpgb.apambiente.pt/IcoldClub/jan2012/EWG FLOODS FINAL REPORT.pdf) đã thấy đập (cả thủy điện, thủy lợi và cấp nước) đã giúp giảm nhẹ lũ lụt ở tất cả các nước châu Âu. Tuy nhiên, mức độ giảm nhẹ lũ tùy thuộc vào dung tích hồ và quá trình vận hành hồ. Các hồ lớn, dự báo tốt để có thể xả nước trước khi lũ lụt sẽ giúp giảm rất nhiều lũ lụt ở hạ du, trong khi các hồ nhỏ thì hầu như không có khả năng giảm lũ lụt.
Việt Nam ta đã xây dựng nhiều hồ thủy điện, đặc biệt là trong những năm gần đây. Cùng với việc xây dựng các hồ thủy điện là việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn xây dựng cũng như vận hành các hồ chứa. Đặc biệt, Luật Thủy lợi và Nghị định số 114/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước đã quy định về lập, phê duyệt, công khai và thực hiện quy trình vận hành hồ chứa trong trường hợp có lũ, như là trường hợp khẩn cấp.
Trong đó, Luật Thủy lợi quy định trong quá trình thi công, chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước có trách nhiệm lập phương án ứng phó thiên tai cho công trình, vùng hạ du đập trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện. Chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước cũng có trách nhiệm lập quy trình vận hành hồ chứa, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi tích nước và bàn giao cho tổ chức, cá nhân khai thác, cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, phòng, chống thiên tai.
Các hồ thủy điện ở Việt Nam được vận hành theo các quy trình được xây dựng theo chuẩn quốc tế. Nói chung, quy trình xả lũ của đập thủy điện do các chủ đầu tư xây dựng, trình phê duyệt có các thông số kỹ thuật khác nhau, nhưng có các điểm chính như sau.
Video đang HOT
Khi mưa về, hồ xả nước tới mức “đón lũ”. Gần đây, mức đón lũ được giảm xuống, tùy vào hồ có chức năng điều tiết lũ hay không.
Mưa vẫn lớn, lượng nước về hồ khá lớn; nước trong hồ dâng lên vượt một mức nào đó (ngưỡng thứ nhất, gọi là ngưỡng xả), hồ bắt đầu xả nước để giảm tốc độ nước dâng trong hồ. Lưu lượng xả nước tăng theo mực nước trong hồ.
Khi mực nước trong hồ đạt tới ngưỡng thứ 2, hồ xả nước với lưu lượng bằng lưu lượng nước về hồ. Lúc đó có thủy điện hay không có thủy điện lượng nước về hạ lưu vẫn thế, hay nói cách khác là khi đó, có hồ cũng như không. Thủy điện không xả quá lượng nước về vì nó vẫn cần tích nước phục vụ phát điện. Nước trong hồ là tài sản của nó, là tiền nên các nhà quản lý thủy điện không xả bừa bãi để gây ngập lụt ở hạ du.
Các thủy điện nhỏ không có chức năng điều tiết lũ nên lượng nước nó xả nhiều nhất đúng bằng lượng nước vào hồ và do vậy, việc xả lũ không có tác dụng điều tiết lũ lụt. Điều này cũng đúng như viết trong báo cáo của châu Âu được dẫn ở trên.
Quy trình nêu trên khá rõ ràng, nhưng vẫn có những ý kiến rằng xả lũ đập thủy điện làm tăng lũ. Vậy hãy làm một thí nghiệm đơn giản để xem thủy điện có làm tăng lũ hay không?
Ta lấy 1 cái chậu đang có 1 ít nước, cho một vòi nước vào đó và cho nước chảy vào chậu. Ban đầu ít nước, nước giữ trong chậu. Sau đó mực nước trong chậu tăng lên, tới lúc tràn. Đây là xả lũ. Lúc này lượng nước từ vòi vào chậu bằng lượng nước xả ra và mực nước trong chậu không đổi. Thủy điện là cái chậu đó. Cái chậu đó tích được thêm 1 ít nước, nhưng không sinh thêm ra nước để đổ ra ngoài. Nếu phía cuối sân có chỗ trũng thì rõ ràng là nước chảy qua chậu sẽ gây ngập ít hơn ở chỗ này so với nước xả trực tiếp ra sân.
Trong thực tế, các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy thủy điện gây ra nhiều hệ lụy môi trường, sinh thái và làm gia tăng xói lở bờ biển do chặn dòng bùn cát chảy ra biển; thủy điện cũng có những nguy cơ gây lũ quét rất lớn nếu đập bị vỡ; nhưng không có cơ sở khoa học nào để nói thủy điện làm tăng lũ. Nếu không có đập thủy điện lũ vẫn thế, thậm chí cao hơn. Đối với nhiều trường hợp, không có hồ thủy điện lũ cao hơn rất nhiều.
Ngày trước, có thời gian bản thân người viết bài này sống cùng gia đình họ hàng ở ngay bờ, sát với sông Hồng, chỗ bến Hàm Tử bây giờ. Nhà họ hàng tôi có sắm một cái thuyền tôn để hàng năm dùng vào mùa lụt. Những năm chưa có đập thủy điện Hòa Bình, năm nào nước cũng ngập tới lưng nhà, thậm chí ngập đầu người và gia đình đều phải sơ tán, chỉ để 1 người nằm thuyền trông nhà. Từ khi có đập thủy điện Hòa Bình thì không còn lũ. Chúng tôi đã chuyển khỏi bờ sông từ rất lâu rồi, nhưng một số họ hàng tôi vẫn sống ở ngoài đê. Từ khi có đập thủy điện, nhất là trong 15 năm gần đây nhà họ chưa bao giờ bị lụt.
Có người nói rằng xây đập thủy điện sẽ gây phá rừng. Nếu quản lý tốt thì phần diện tích rừng bị phá chỉ là lòng hồ và một phần rừng bị phá để làm đường sá và các công trình phục vụ thủy điện. Ta hãy đánh giá xem tác hại của việc phá rừng lòng hồ tới lũ lụt như thế nào thông qua giải thích như dưới đây.
Thông thường, tùy vào điều kiện đất (trước đó có mưa hay không mà đất có bị ướt hay không), đất, hang hốc và lá, cành cây chỉ giữ được một lượng nước không lớn. Rất khó tính toán chính xác lượng nước này nhưng cứ tạm cho một giá trị cực kỳ lớn, khoảng chừng 20 cm hoặc 200 mm. Vậy nước còn lại sẽ chảy về xuôi gây lụt. Nếu lượng mưa là 700 mm thì lượng chảy về xuôi là 500 mm. Mặt khác, như đã nêu trên, mực nước đón lũ trong hồ thấp hơn mực nước xả lũ it nhất tới 4m. Vậy mặt hồ chứa ít nhất được 4m nước và mặt đất chứa được tối đa 0,2m nước. Nhiều hồ lớn, như thủy điện A Vương, chứa được 14 m nước. Như vậy phá rừng lòng hồ có làm gia tăng lũ lụt không? Tất nhiên là không!
Như vậy, các đập thủy điện đúng là tác động môi trường cực lớn, nhưng không làm tăng rủi ro lũ lụt.
Báo cáo của châu Âu mà tôi dẫn ở trên cũng cho thấy các hồ chứa chỉ có khả năng giảm lũ, lụt nhưng không có khả năng loại trừ hoàn toàn lũ, lụt. Nếu mưa lớn, hồ chứa không đủ sức điều tiết thì lũ lụt vẫn xảy ra. Hơn nữa, nếu hồ chứa không được xây dựng đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, có khả năng đập bị vỡ gây ra thảm họa khôn lường.
Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh để đảm bảo vận hành một cách an toàn và hiệu quả các hồ chứa. Tuy vậy, các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp trung ương và địa phương phải nỗ lực tổ chức thực hiện, đảm bảo các đập thủy điện được thiết kế và xây dựng phù hợp, an toàn; các đập và hồ được kiểm tra, bảo dưỡng thường xuyên và có quy trình vận hành được các cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định để đảm bảo an toàn và hiệu quả như các mục tiêu thiết kế đề ra để góp phần giảm thiểu lũ lụt và tác hại của lũ lụt, cũng như ngăn ngừa sự cố môi trường do vỡ đập.
Cần chú ý là việc xây dựng các hồ chứa luôn kèm theo việc xây dựng một hệ thống hạ tầng đính kèm, bao gồm nhà quản lý, biến áp, đường sá cũng như có thể yêu cầu bố trí quỹ đất để tái định cư. Việc này sẽ gây ra phá rừng và do vậy làm gia tăng lũ lụt. Ngoài ra, việc san đồi núi tạo các mặt bằng xây dựng có thể làm gia tăng mức độ bất ổn định của các khối đất đá, làm gia tăng khả năng trượt lở đất và gây những thiệt hại về người và của. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng, hiện nay phát triển hệ thống hạ tầng giao thông cần được thực hiện ở các vùng núi cao; như vậy việc xây dựng đường của các thủy điện có thể coi một phần là đóng góp phát triển kinh tế – xã hội. Do vậy, cần nghiên cứu đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của việc xây dựng hạ tầng thủy điện và có biện pháp quản lý phù hợp.
Một thí dụ về một nước phát triển nhưng vẫn có nhiều người chết do vỡ đê, sạt lở đất, lũ quét là Nhật Bản. Nhật Bản là một nước đã xây dựng được những con đê, những sườn núi xây bê tông cực kỳ hiện đại để chặn lở đất cũng như một hệ thống hạ tầng cứu hộ mà ít quốc gia trên thế giới có được. Tuy vậy, hằng năm Nhật vẫn có khá nhiều người chết vì sạt lở núi, vỡ đê, lũ lụt và lũ quét, chứng tỏ sức tàn phá của lũ kinh khủng ra sao. Thí dụ, cơn bão Hagibis quét qua Nhật Bản vào tháng 10 năm 2019 làm chết 10 người do lũ lụt và sạt lở đất. Đặc biệt, trận mưa tháng 7 năm 2018 ở Nhật đã làm chết 225 người, mất tích 13 người (https://en.wikipedia.org/wiki/2018_Japan_floods) cũng do lũ lụt và sạt lở đất.
Do những tác động môi trường của thủy điện, tôi không ủng hộ thủy điện và nếu được chọn thì tôi sẽ theo làm theo cách của Mỹ, phá thủy điện cũ đi, không xây thêm thủy điện mới mà chỉ phát triển nhiệt điện và các dạng năng lượng khác. Tuy nhiên, đặt điều đó ra với Việt Nam rất khó khăn. Phát triển kinh tế mà giảm tiêu thụ điện là một chuyện chỉ có trong tưởng tượng. Ở Việt Nam hiện nay, do biến đổi khí hậu, ngay cả các gia đinh có điều kiện ỏ nông thôn cũng dùng điều hòa nhiệt độ vào mùa hè. Hơn nữa, kinh tế càng phát triển thì càng cần nhiều điện hơn nên năng lượng càng ngày càng thiếu. Do vậy, dù thế nào ta vẫn phải tiếp tục phát triển năng lượng. Vấn đề chỉ là phát triển sao cho hiệu quả và gây ít tác động tới môi trường, kinh tế – xã hội nhất.
Bộ trưởng Bộ Công thương thừa nhận cần đánh giá kỹ hơn tác động của thuỷ điện đến môi trường
Sáng nay (2/11), thảo luận tại tổ về tình hình phát triển kinh tế-xã hội, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh (ĐBQH tỉnh Quảng Ngãi) đã nói vậy khi đề cập đến một số thông tin cho rằng, hồ đập thủy điện ở miền Trung và một số địa phương xả lũ gây ngập lụt cho hạ du.
Thủy điện Rào Trăng 3 tại xã Phong Xuân, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế nhìn từ trên cao. Ảnh: VNE
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh, vả nước có 429 công trình thủy điện được đưa vào vận hành khai thác với dung tích 56 tỷ m 3, chiếm 86% tổng dung tích hồ chứa nước trên địa bàn cả nước trong số này căn cứ chúng ta có đầy đủ quy định quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn đập hồ thủy điện cũng như vận hành của các công trình hồ thủy điện, liên hồ chứa.
Hiện nay, có 401/401 các đập thủy điện được chủ đập thực hiện đúng quy định báo cáo hiện trạng an toàn đập, 100% đập được thực hiện theo đúng quy định về bảo trì kiểm tra và sửa chữa đập có 376/401 đập được chủ đập thực hiện theo đúng quy định về quy trình bảo trì sửa chữa và các quy trình vận hành hồ chứa.
Bên cạnh đó, có 401/401 hồ chứa có các quy trình đã được các cơ quan có thẩm quyền trung ương hoặc địa phương phê duyệt về các phương án ứng phó thiên tai cũng như phối hợp ứng phó với bão lũ ở địa phương.
"Quy trình này cho phép chúng ta thời gian qua đảm bảo được an toàn nói chung cũng như chấp hành pháp luật trong vận hành của các hồ đập thủy điện" - Bộ trưởng khẳng định.
Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, trong mùa mưa bão lũ của năm 2020, Bộ đã kiểm tra hoặc phối hợp với địa phương (nơi có các công trình lớn) tổ chức các đoàn kiểm tra các hồ đập thuỷ điện. Qua thực tế kiểm tra, tất cả hồ đập thủy điện ở tại khu vực đều đảm bảo an toàn của đập và cũng như vận hành của hồ. Tất cả hồ đập thủy điện đều thực hiện quy trình xả lũ và vận hành liên hồ, đơn hồ theo đúng quy định của pháp luật.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu tại buổi thảo luận tổ ĐBQH về tình hình kinh tế - xã hội sáng (2/11).
"Thực tế qua kết quả quan trắc của Khí tượng thủy văn, hồ Dakmi 4 (Quảng Nam), có thời điểm đỉnh lũ ngày 28/10 là nước về hồ lên tới 17.000 m3/giây, nhưng chính nhờ dung tích của Dakmi 4 có khả năng điều tiết, chứa nước để cắt lũ đã giúp cắt lũ hơn 55%, nếu không với đỉnh lũ về ngày 28/10 sẽ gây ngập trắng toàn vùng hạ lưu, song chúng ta duy trì kéo dài sang ngày 29-30/10 mới xả nước ở mức thấp hơn lượng nước về hồ nên góp phần chống lũ có hiệu quả cho vùng hạ lưu" - Bộ trưởng Trần Tuấn Anh thông tin.
Đặc biệt, trước một số thông tin cho rằng, hồ đập thủy điện ở miền Trung và một số địa phương xả lũ gây ngập lụt cho hạ du, Bộ trưởng Bộ Công thương lý giải, với lượng mưa lớn và liên tục như vừa qua nên ở hầu hết khu vực tại miền Trung và khu vực địa chất yếu đã dẫn đến hiện tượng sạt lở và gây tai nạn thương tâm như ở Rào Trăng 3, Trà Leng..., gây thiệt hại người và của ở các địa phương.
Tất nhiên, Bộ trưởng cũng thừa nhận, "nguyên nhân xuất phát từ hoạt động phát triển kinh tế-xã hội, dân sinh ảnh hưởng đến môi trường cần được xem xét, đánh giá kỹ hơn, kể cả chuyện thủy điện, công trình giao thông công cộng hay công trình dân sinh... tác động, ảnh hưởng thế nào đến môi trường.
Song phải khẳng định tính dị thường và cực đoan của thời tiết là một trong những nguyên nhân lớn ảnh hưởng đặc biệt đến môi trường ở địa phương và mức độ, hậu quả ghê gớm của thiên tai, lũ lụt thời gian vừa qua. Điều này Chính phủ đã có chỉ đạo và sẽ tiếp tục có nghiên cứu đánh giá kỹ".
Doanh nhân tỉnh Quảng Nam tại TP Hồ Chí Minh vận động hỗ trợ hơn 3 tỷ đồng ủng hộ đồng bào miền Trung Chiều 2-11, Câu lạc bộ Doanh nhân Quế Sơn - Nông Sơn - Hiệp Đức (QNH) tại TP Hồ Chí Minh cho biết trong dịp kỷ niệm 3 năm thành lập câu lạc bộ QNH đã tổ chức giải Giải Quần vợt QNH tranh cúp ASIA 2020 vận động quyên góp, ủng hộ cho đồng bào miền Trung bị thiệt hại do bão...