Đội quân luôn khiến kẻ thù khiếp đảm của Gia Cát Lượng
Đội quân tinh nhuệ Gia Cát Lượng xây dựng cho nhà Thục Hán trong giai đoạn chiến dịch Nam Trung đóng góp không nhỏ vào các chiến thắng trước Tào Ngụy và chỉ bị t.iêu d.iệt trong những năm cuối thời nhà Thục.
Vô Đương phi quân giỏi dùng cung nỏ, tên độc, đặc biệt tinh nhuệ trong tác chiến phòng ngự.
Theo trang mạng hquanqiu.com (Trung Quốc), sau chiến dịch Nam Trung (chiến dịch tấn công vào vùng Nam Trung do Khổng Minh chỉ huy năm 225), Gia Cát Lượng đã tận dụng sức chiến đấu của các dân tộc thiểu số miền Nam để xây dựng đội quân tinh nhuệ đặc biệt, mang tên Vô Đương phi quân.
Vô Đương phi quân cùng với đội cấm vệ quân Bạch Nhĩ binh của Lưu Bị và quân đoàn Tây Lương của Mã gia trở thành 3 lực lượng tinh nhuệ của nhà Thục Hán.
Đội quân tinh nhuệ này mang những tố chất đặc biệt, được xem như biệt đội lính đ.ánh thuê.
Người dân tộc thiểu số
Trước chiến dịch Nam Trung, nhà Thục Hán từng sử dụng các chiến binh thuộc tộc Vũ Lăng, hậu duệ của Miêu tộc – dân tộc thiểu số Trung Quốc. Lực lượng này đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến Thục-Ngô. Danh tướng Đông Ngô là Cam Ninh cũng m.ất m.ạng dưới tay đội quân này.
Gia Cát Lượng từ đó nhận thức rõ về năng lực chiến đấu của các dân tộc thiểu số ở Nam Trung. Trong lịch sử Trung Quốc, các dân tộc ở đồng bằng, sống bằng nghề nông thường thua kém các tộc người du mục cả về khả năng và tinh thần chiến đấu.
Kết thúc cuộc chiến Nam Trung, hòa bình và ổn định được khôi phục ở phía Nam, Thục Hán không còn nhiều mục đích sử dụng các chiến binh này. Nhưng để lực lượng thiện chiến như vậy ở phía Nam chắc chắn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Gia Cát Lượng (giữa) trong bộ phim Tân Tam Quốc Diễn Nghĩa. Ảnh minh họa.
Do đó, Gia Cát Lượng đề ra chiến lược “một mũi tên trúng hai đích”. Một mặt chiêu mộ các chiến binh dân tộc thiểu số phục vụ cho nhà Thục Hán, mặt khác, ngân sách để nuôi đội quân này do những người giàu có ở địa phương trang trải.
“Hoa Dương quốc chí” của Thường Cừ thời Đông Tấn ghi lại các chiến binh dân tộc thiểu số (người Di) tham nhận của cải của người Hán, nên thần phục nhà Thục Hán, từ đó hình thành nên mối quan hệ Di-Hán.
Tầng lớp nhà giàu của người Di được Thục Hán bảo trợ, duy trì địa vị nên sẵn sàng chi t.iền giúp Gia Cát Lượng chiêu binh. Điều này cũng giúp làm giảm mâu thuẫn dân tộc.
Đề phòng lực lượng đối lập miền Nam trỗi dậy, Gia Cát Lượng khuyến khích người dân Nam Trung di cư về Thục Hán sinh sống, chia làm 5 “bộ”, hiệu là phi quân. Lực lượng đặc nhiệm Vô Đương phi quân hình thành từ đó.
Những người thiểu số gia nhập Vô Đương phi quân trở thành người của nhà Thục Hán. Cha mất, con tiếp tục gia nhập quân đội, chiến đấu vì sự nghiệp nhà Thục, trở thành người lính chuyên nghiệp.
Trang mạng Trung Quốc so sánh Vô Đương phi quân với lực lượng tinh nhuệ Gurkha, có nguồn gốc từ tộc người thiểu số ở Nepal, đ.ánh thuê cho quân đội Anh từ thế kỷ 19.
Năng lực chiến đấu đáng nể
Đội quân tinh nhuệ Vô Đương phi quân được sử sách Trung Quốc ghi nhận và thể hiện được năng lực chiến đấu vượt trội, thông qua các cuộc chiến của nhà Thục Hán.
Sử sách Trung Quốc ghi lại, chiến binh Vô Đương phi quân “thân mặc thiết giáp, có thể dời non vượt núi, giỏi dùng cung nỏ, tên độc, đặc biệt tinh nhuệ trong tác chiến phòng ngự”.
Ảnh minh họa.
Video đang HOT
Trong cuộc Bắc phạt ra Kỳ Sơn lần đầu tiên của Khổng Minh, quân Thục do Mã Tắc làm chủ soái giao chiến với tướng Ngụy Trương Cáp ở Nhai Đình. Mã Tốc sai lầm khiến quân Thục thảm bại.
Gia Cát Lượng ra lệnh cho Vô Đương phi quân do Vương Bình thống soái, đ.ánh đoạn hậu, yểm trợ cho quân thục rút lui khỏi chiến trường. Đây được xem là chiến công nổi bật, giúp Thục Hán tránh được kết cục toàn quân bị t.iêu d.iệt.
Năm 231, Gia Cát Lượng khởi binh Bắc phạt lần thứ 4, lệnh cho Vương Bình làm phó soái đồn trú ở Nam Vi. Đích thân Khổng Minh chỉ huy đội quân chủ lực vây Tư Mã Ý ở Kỳ Sơn.
Trước sức ép của Khổng Minh, và bị các tướng lĩnh dưới quyền thúc giục, Tư Mã Ý buộc phải điều Trương Cáp thống lĩnh đại quân tấn công Vương Bình.
Vô đương phi quân do Vương Bình chỉ huy chỉ có 3.000 người, trong khi quân Ngụy đông gấp 20 lần. Nhưng các chiến binh tinh nhuệ đã “l.iều c.hết chiến đấu”, khiến đối phương rơi vào bế tắc.
Không để cho quân Ngụy kịp rút lui, Vô Đương phi quân chuyển sang phản kích, t.iền hậu giáp công, khiến đại binh do Trương Cáp chỉ huy thất bại nặng nề.
Ảnh minh họa.
Dù chiến dịch Bắc phạt lần 4 không đem lại thành công, nhưng các họcgiả Trung Quốc đ.ánh giá, đây là lần đầu tiên quân Thục “giành được ưu thế” trước quân Ngụy, nhờ vào Vô Đương phi quân.
Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Vô Đương phi quân chủ yếu được huy động để đ.ập tan của cuộc tạo phản của dân tộc miền núi. Năm 240, quân Thục đồn trú ở Hán Gia (Tứ Xuyên) thiệt hại nặng nề bởi phản loạn, tướng trấn thủ c.hết trận.
Thục Hán phải huy động Vô Đương phi quân đến kiểm soát tình hình. Vô Đương phi quân khi đó đã bước sang thế hệ thứ hai hoặc thứ ba.
Tuy thiện chiến nhưng với quân số ít ỏi, Vô Đương phi quân hầu như không thể làm thay đội cục diện Tam quốc, vốn ngày càng nghiêng về nhà Ngụy.
Sử sách Trung Quốc chép lại, cái kết của Vô Đương phi quân vô vùng bi thảm. Đó là thời điểm diễn ra cuộc Bắc phạt thứ 8 trong 9 lần đ.ánh Ngụy của Khương Duy, người kế tục Gia Cát Lượng.
Cũng đảm nhiệm trọng trách yểm trợ quân chủ lực rút lui, tướng Trương Nghi, tư lệnh cuối cùng chỉ huy Vô Đương phi quân thống lĩnh 5.000 binh sĩ quyết tử chiến.
Vô Đương phi quân chịu thiệt hại nặng nề. Mặc dù sau đó, Thục Hán xây dựng lại lực lượng Vô Đương phi quân mới nhưng thực tế lực lượng này gần như không còn tồn tại.
________________
Trong giai đoạn đầu thời kỳ Tam quốc ở Trung Quốc, có một vị quân sư nổi lên giúp Tào Tháo thống nhất miền Bắc. Bài viết xuất bản sáng sớm ngày 29.12 sẽ bàn đến năng lực của vị quân sư kiệt xuất này và có phần so sánh với Gia Cát Lượng.
Theo Đăng Nguyễn – Tổng hợp (Dân Việt)
Sai lầm lớn nhất Gia Cát Lượng khiến Thục Hán diệt vong
Đệ tử Gia Cát Lượng tin cậy chọn làm người kế tục, cuối cùng lại chính là người trực tiếp đưa nhà Thục Hán đến con đường diệt vong.
Khương Duy và Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng (181-234) là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc thời Tam quốc. Ông là người hình thành nên thế chân vạc giữa nhà Thục Hán, Đông Ngô và Tào Ngụy trong suốt 60 năm. Ông cũng là nhân vật rất quan trọng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Loạt bài này sẽ đi sâu lý giải những bí ẩn trong cuộc đời nhà quân sự tài ba Trung Quốc, trong đó có nhiều chi tiết không được đề cập trong tiểu thuyết.
Để làm rõ vấn đề này, trang mạng Phượng Hoàng (Ifeng) đã trích dẫn nội dung trong cuốn sách "Cái c.hết của các danh tướng", do tác giả Trương Nhuệ Cường biên soạn.
Người kế tục Gia Cát Lượng
Theo Ifeng, sai lầm lớn nhất trong việc dùng người của quân sư nhà Thục Hán Gia Cát Lượng, không phải việc ông từng dùng Mã Tốc hay Ngụy Diên, mà là việc lựa chọn Khương Duy làm người kế thừa sau khi mình qua đời.
Khương Duy, tự Bá Ước, là người Cam Túc, ban đầu là một vị tướng bên phe Tào Ngụy. Mùa xuân năm 228, Gia Cát Lượng phái Trấn Đông tướng quân Triệu Vân, Dương Vũ tướng quân Đặng Chi chiếm cứ Cơ Cốc, sẵn sàng tấn công đất Mi (Thiểm Tây ngày nay).
Ngụy Minh Đế Tào Duệ khi đó cử đại đô đốc Tào Chân làm thống lĩnh, đặt trọng binh phòng ngự ở đất Mi.
Gia Cát Lượng nắm lấy cơ hội dẫn đầu quân chủ lực quay sang tấn công Kỳ Sơn. Quân Thục đang có thế lớn lại được ba quận Thiên Thủy, Nam An, An Định của Ngụy đều đã sẵn sàng "bỏ Ngụy về Thục".
Khương Duy khi đó là Trung lang tướng ở quận Thiên Thủy, cùng Thái thú Mã Tuân tháp tùng Thứ sử Ung Châu Quách Hoài tuần sát các vùng. Được tin 3 quận phản Ngụy, Quách Hoài cấp trở về đất Thượng Khuê ở phía đông để gia cố phòng ngự.
Phác họa hình ảnh Khương Duy.
Vì bất đồng chính kiến, Mã Tuân bỏ lại Khương Duy, một mình chạy về Thượng Khuê. Khi Khương Duy cùng các thuộc hạ tới nơi thì Quách, Mã quyết không mở cổng thành.
Khương Duy tới bước đường cùng, buộc phải quay đầu trở lại và sau đó gia nhập lực lượng của Gia Cát Lượng. Có được Khương Duy, Gia Cát Lượng vui mừng như nắm trong tay báu vật. Thư gửi Tham quân Tưởng Uyển có đoạn viết: "Khương Bá Ước nhạy bén việc quân, suy nghĩ thấu đáo, đã trải qua nhiều thử thách".
Năm đó, Khương Duy 27 t.uổi, được Gia Cát Lượng sắc phong Phụng Nghĩa tướng quân, làm Dương Đình Hầu. Được Gia Cát Lượng tín nhiệm, Khương Duy sớm thăng cấp làm Trung giám quân, dẫn đầu đại quân chinh phạt phía tây.
Sau lần rút quân từ gò Ngũ Trượng về Thành Đô, Dương Nghi tỏ ra tự mãn, cho rằng mình có công lớn, đáng là người kế thừa Gia Cát Lượng. Nhưng lại không được Gia Cát Lượng tin tưởng, giao phó binh quyền nên Dương Nghi tỏ ra bất mãn. Năm 235, Năm 235, Lưu Thiện hạ lệnh bãi chức Dương Nghi, phế làm dân thường. Vì vẫn tỏ ra phản kháng, Dương Nghi bị bắt giam và cuối cùng t.ự s.át trong tù.
Về phần mình, Gia Cát Lượng đem chính sự giao Tưởng Uyển, Phí Y, Đổng Doãn, riêng quân sự do Khương Duy nắm quyền.
Về sau, Tưởng Uyển, Đổng Doãn lần lượt qua đời, Khương Duy nắm quyền lực lớn hơn, cùng Phí Y giữ chức Thượng thư.
Khi Phí Y bị hàng tướng Quách Tuần á.m s.át năm 253, Khương Duy về cơ bản đã trở thành đại thần có tầm ảnh hưởng lớn nhất Nhà Thục Hán. Có thể nói, mọi vấn đề của Thục Hán đều đổ lên đầu Khương Bá Ước.
Khương Duy không gánh vác được nhà Thục Hán?
Khương Duy là người kế tục mà Gia Cát Lượng tin tưởng nhất.
Sau khi Lưu Bị qua đời, Gia Cát Lượng nắm quyền triều đình Thục Hán hơn 10 năm, trong đó có 7 năm khiến đất nước luôn trong tình trạng chiến tranh, bao gồm một lần Nam chinh và 6 lần Bắc phạt.
Trong khi đó, Khương Duy 9 lần mở chiến dịch tấn công nhà Ngụy ở phương Bắc, gọi là "cửu phạt trung nguyên". Mặc dù Khương Duy giành được một số thắng lợi, nhưng sự nghiệp "nhất thống thiên hạ" của Thục Hán vẫn không đạt được bất cứ đột phá chiến lược nào.
Có thể nói, Gia Cát Lượng và Khương Duy đều là những nhân vật tài ba thời Tam quốc. Nhưng cả hai đều thất bại trong vai trò thừa tướng nhà Thục Hán.
Bảo tàng văn hóa Thục trong Miếu Vũ Hầu ở Thành Đô (Trung Quốc) có lưu trữ một tấm bản đồ thời Tam Quốc, bao gồm số liệu so sánh nhân khẩu ba nước khi đó.
Cụ thể, dân số Thục Hán là 940.000, Tào Ngụy 4.432.881, còn Đông Ngô là 2.300.000 người. Những số liệu này về cơ bản phản ánh được tình trạng phân bố dân cư và sức mạnh của 3 phe phái thời Tam quốc.
Dân số Thục Hán không bằng 1/4 Ngụy và một nửa Đông Ngô. Trong khi Trung Quốc thời cổ đại phụ thuộc lớn vào sức chiến đấu từ nhân lực. Từ khi hình thành đến sau này, nhà Thục Hán luôn yếu nhất.
Có ý kiến cho rằng, chỉ cần sở hữu thống soái tốt, thì "con cừu cũng thể được đào tạo thành con hổ". Nhưng nhà Thục Hán cuối thời Tam quốc cũng không có ai kiệt xuất như vậy.
Giống như bậc t.iền bối, 9 lần Bắc Phạt của nhà Thục Hán do Khương Duy chỉ huy đều không giành được chiến thắng.
Năng lực Gia Cát Lượng sau này được các nhà sử học đ.ánh giá không vượt trội so với Tư Mã Ý. Khương Duy kế tục cũng không chiếm ưu thế trước Đặng Ngải, Chung Hội nhà Ngụy.
Nhiều năm sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Phí Y từng cảnh báo Khương Duy: "Chúng ta tài kém xa Thừa tướng (Gia Cát Lượng). Thừa tướng cũng không thể bình định Trung Nguyên, huống gì bọn ta! Chi bằng giữ nước an dân, bảo toàn xã tắc, cũng là giữ trọn cơ nghiệp". Câu nói này được các nhà nghiên cứu ngày nay nhận định là đúng đắn.
Chiến tranh được coi là con dao hai lưỡi. 9 lần xuất quân Bắc phạt, Khương Duy đều không thể giành chiến thắng quyết định.
Số dân nước Thục khi khi Lưu Bị xưng đế năm 221 là 900.000 thì đến giai đoạn diệt vong năm 263, con số này chỉ tăng lên có 940.000. Số liệu hầu như không có sự khác biệt đã thể hiện tình hình chiến tranh liên miên, khiến sức mạnh nhà Thục Hán gần như không thay đổi.
Như vậy, Khương Duy chỉ "tròn vai" trong vai trò lãnh đạo quân sự mà không thể hiện năng lực trong chuyện triều chính. Ông cũng không quan tâm đến việc phát triển đất nước.
Nhân vật tầm thường như Liêu Hóa ở Nhà Thục cũng từng khuyên Khương Duy, "Binh không dấu, ắt tự diệt. Trí không hơn địch, mà lực kém hơn địch, làm sao có thể đứng vững? Nhiều năm chinh chiến, quân dân không được an ninh, lại thêm Ngụy có Đặng Ngải túc trí đa mưu, không phải tầm thường. Không nên miễn cưỡng làm điều quá khó khăn". Việc Khương Duy chủ chiến được đ.ánh giá là "biết chắc thất bại mà vẫn cố chấp".
Sai lầm dẫn đến Thục Hán sụp đổ
Cho đến cuối cùng, chính Khương Duy đã c.oi t.hường, bỏ qua việc gia cố phòng ngự Hán Trung để cho nhà Thục Hán dễ dàng đại bại trước quân Ngụy.
Tầm quan trọng của Hán Trung đối với Thục Hán là không thể bàn cãi. Ngoài Gia Cát Lượng, Tưởng Uyển và Phí Ý cũng từng có thời gian đến phòng thủ tại nơi này.
Ảnh minh họa.
Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Đại tư mã Ngụy là Tào Sảng xuất binh chinh phạt để "lập uy", nhưng vấp phải phòng tuyến Hán Trung nên đành "ngậm ngùi trở về".
Khi trở thành Thừa tướng nhà Thục Hán, Khương Duy nhận định vị thế phòng ngự này không thể giúp Thục Hán đạt được mục đích quân sự thôn tính Tào Ngụy.
Trước quyền lực và tầm ảnh hưởng của Khương Duy, triều đình cho giải thể các điểm đặt doanh trại để tập trung binh lực đồn trú ở 2 thành Hán, Lạc.
Toan tính của Khương Duy tưởng như tích cực nhưng thực chất lại khiến Thục Hán đại bại nhanh chóng. Về sau, tướng Ngụy là Chung Hội công phạt Hán Trung một cách dễ dàng.
Theo các nhà sử học ngày nay, sai lầm của Khương Duy chủ yếu nằm ở 2 vấn đề. Về chiến lược, ông dụng binh quá thường xuyên; về chiến thuật, ông từ bỏ các điểm phòng thủ hiểm yếu, khiến Thục Hán "hở sườn".
Các học giả hiện đại cũng có cách nhìn nhận công bằng hơn đối với danh tướng cuối cùng của nhà Thục Hán. Bởi bên cạnh sai lầm cá nhân của Khương Duy, Thục Hán quốc lực yếu kém là điểm yếu chí mạng từ hàng chục năm.
Tài năng của Khương Duy ngày càng nổi bật hơn trong giai đoạn nhà Thục Hán suy vong. Nhưng nhìn lại cả một giai đoạn lịch sử Trung Quốc thời Tam quốc, việc Gia Cát Lượng chọn Khương Duy là người kế tục không thể nói là thành công, bài phân tích trên trang Phượng Hoàng kết luận.
________________
Trong suốt giai đoạn phò tá Lưu Bị, Gia Cát Lượng có những mâu thuẫn sâu sắc với Quan Vũ. Bài viết xuất bản sáng sớm ngày 25.12 sẽ làm rõ vai trò của Gia Cát Lượng trong cái c.hết của Quan Vũ, khiến nhà Thục Hán để mất Kinh Châu.
Theo Đăng Nguyễn - Phượng Hoàng (ifeng) (Dân Việt)
Vì sao Gia Cát Lượng quyết diệt Tào Ngụy cho đến c.hết? Bắc phạt diệt Tào Ngụy là chiến lược quân sự lớn nhất trong cuộc đời Gia Cát Lượng và ông qua đời khi sự nghiệp thống nhất Trung Quốc vẫn còn dang dở. Tư Mã Ý luôn là đối thủ của Khổng Minh trong suốt 6 lần Bắc phạt. Sau trận Xích Bích lịch sử năm 208, cục diện tam quốc (thế chân...