Đói nghèo chui ra từ ‘chén rượu’
Vui cũng uống, buồn cũng uống, càng nghèo lại càng uống. Đó là thực trạng của nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay. Điều đó khiến cho chi tiêu trên đầu người cho giáo dục và y tế ở các hộ có sử dụng rượu, bia chỉ bằng 48% và 60% so với hộ không có người sử dụng rượu, bia ở các nhóm nghèo, hộ dân tộc thiểu số.
Và vì thế mà danh sách những người chết trẻ vì những bệnh mãn tính, những đứa trẻ thất học cứ ngày một dài thêm …
Tỉ lệ uống rượu bia ở mức nguy hại ở vùng DTTS đang gia tăng qua các năm (ảnh minh họa).
Tỷ lệ uống rượu ở nam giới người dân tộc trên 70%
Tại hội thảo chia sẻ thông tin về tình hình sử dụng rượu, bia ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS) do Ủy ban Dân tộc phối hợp với Tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam tổ chức mới đây, Thạc sĩ Trần Quốc Bảo – Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế đã thông tin về tình hình sử dụng rượu, bia trong các nhóm đồng bào DTTS theo đó, tỉ lệ uống ở mức nguy hại ở vùng DTTS đang gia tăng qua các năm. Đặc biệt, ở vùng DTTS, tỉ lệ sử dụng rượu, bia ở cả nam và nữ luôn cao hơn so với dân tộc Kinh.
Theo nghiên cứu của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, tỉ lệ uống rượu ở nam giới người dân tộc Nùng là 76,2%; dân tộc Dao là 80,8%, dân tộc Mường là 84,1%; dân tộc Tày là 85,7%. Trong khi đó, rượu, bia là chất nguy hại với sức khỏe, có thể gây rối loạn thần kinh, gây ung thư, bệnh tim mạch, đái tháo đường, bệnh tiêu hóa, tổn thương hệ miễn dịch.
“Rượu, bia đang từng ngày góp phần làm tăng các nguy cơ mắc bệnh mạn tính (ung thư, tim mạch), gây tổn thương cấp tính hoặc lâu dài về thể chất (tổn thương gan, xơ gan, bệnh tim mạch…), hay tâm thần (trầm cảm, loạn thần…). Đặc biệt, tai nạn do người sử dụng rượu, bia gây ra luôn nằm trong số những tai nạn thảm khốc nhất” – Thạc sĩ Bảo chia sẻ.
Ở khía cạnh xã hội học, bà Vũ Thị Minh Hạnh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách y tế, Bộ Y tế, thông tin thêm một điều rất đáng lưu ý là người DTTS hiện nay có tỉ lệ sử dụng rượu, bia cao hơn người dân tộc Kinh, do vậy, họ phải chịu ảnh hưởng của rượu, bia mạnh hơn.
Bà Hạnh cho rằng, nếu chúng ta không kiểm soát vấn đề này, thì bất bình đẳng xã hội ở khu vực này ngày càng gia tăng, bởi phụ nữ, trẻ em, những người có trình độ học vấn thấp thường rơi vào nhóm người DTTS.Tình trạng sử dụng rượu, bia đang có xu hướng trẻ hóa ở vùng DTTS mà theo bà Vũ Thị Minh Hạnh thì não bộ của con người chỉ thực sự phát triển một cách đầy đủ khi 25 tuổi.
Nếu sử dụng rượu, bia trước độ tuổi này sẽ tác động đến trí tuệ, sức khỏe tinh thần, hệ thần kinh của các em sau này. Trong khi đó, một số phong tục, tập quán của đồng bào DTTS cho trẻ em uống rượu và tiếp xúc với rượu từ rất sớm.
Ở khía cạnh khác, việc lạm dụng rượu, bia không chỉ có những tác động tiêu cực đến vấn đề sức khỏe, vấn đề xã hội, mà còn có mối quan hệmật thiếtvới tình trạng nghèo đói.
Theo Thạc sĩ, bác sĩ Phạm Hoàng Anh – Giám đốc Tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam: “Qua nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng rượu, bia tới đói nghèo ở Việt Nam từ 9.400 gia đình, chúng tôi nhận thấy các gia đình sử dụng thường xuyên rượu, bia ở Việt Nam đều tập trung ở vùng nông thôn, vùng khó khăn và vùng DTTS. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, chi tiêu cơ bản (thực phẩm, y tế và giáo dục) ở các hộ có người uống rượu, bia luôn thấp hơn so với các hộ khác ở hầu hết các nhóm chi tiêu”.
Video đang HOT
Bản không rượu bản sẽ thoát nghèo
Như đã nói trên, vì một số phong tục, tập quán người DTTS phải uống rượu và tiếp xúc với rượu từ rất sớm và vì thế họ phải chịu ảnh hưởng của rượu, bia mạnh hơn. Con số tỉ lệ uống rượu ở nam giới ở các DTTS đều trên 70%, có nghĩa là cứ 10 người chỉ có 3 người không hoặc ít uống. Nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ không có những người DTTS không ý thức được tác hại của rượu bia và biết từ chối thói quen uống rượu.
Điều này đã được minh chứng tại xã Khun Há, huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu khi những năm gần đây, để góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới, đồng bào dân tộc Mông ở xã đã vận động lẫn nhau là không lạm dụng rượu, bia, cùng nhau xây dựng bản văn hóa, bản không rượu, bia.
Nhờ đó, tại địa phương gần như không xảy ra các vấn đề về bạo lực gia đình, an ninh trật tự, gây rối trật tự công cộng.
Mức độ tiêu thụ rượu bia của người VN – số liệu năm 2018.
Cụ thể, bản Lao Chải 2, xã Khun Há có 62 hộ với 374 nhân khẩu, 100% là đồng bào dân tộc Mông. Những năm gần đây, được các cấp ủy, chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động về việc xây dựng bản văn hóa, nhân dân trong bản ngoài việc cùng nhau góp công, góp tiền để xây dựng đường giao thông nội bản; trồng hoa, cây cảnh tạo cảnh quan, vệ sinh môi trường…, còn bảo nhau cũng như giáo dục, khuyên dạy con cháu không sử dụng rượu, bia trong sinh hoạt, ăn uống hàng ngày.
Để khuyên dạy con cháu không uống rượu, bia, trước hết ông bà, cha mẹ phải làm gương, khi bản thân mình không uống rượu, bia thì con cháu cũng sẽ học theo. Chính nhờ việc không uống rượu, bia mà bà con dân tộc Mông ở bản Lao Chải 2 có nhiều thời gian đi làm nương hơn, tập trung với công việc chăn nuôi, phát triển kinh tế hơn.
Qua đó, điều kiện kinh tế của nhiều hộ trong bản ngày càng phát triển, nhiều hộ không những có tiền xây nhà, mua sắm các đồ dùng đắt tiền như xe máy, tivi, tủ lạnh…, mà còn có tiền gửi ngân hàng, cho con cái đi học… Trong những năm trở lại đây, bản Lao Chải 2 có hơn 20 hộ thoát khỏi danh sách hộ nghèo.
Trả lời báo chí, ông Cứ A Sở – Chủ tịch UBND xã Khun Há cho biết, trên địa bàn xã Khun Há tỷ lệ người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mông sử dụng rượu, bia trong sinh hoạt rất là ít. Việc bà con không sử dụng rượu, bia trong sinh hoạt hàng ngày có tác động rất nhiều trong việc phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Đây là một trong những thuận lợi trong phát triển kinh tế, góp phần vào việc nâng cao đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân trong việc xây dựng bản văn hóa.”Từ kết quả thực hiện chủ trương không sử dụng rượu, bia trong sinh hoạt, ăn uống hàng ngày chúng tôi thấy đây là một nét đặc trưng của địa phương, cần duy trì và phát huy.
Trong thời gian tới, định hướng của xã là tiếp tục nhân rộng mô hình này đến các bản khác để người dân nhận thức được tác hại của rượu, bia. Từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, giảm các tệ nạn xã hội liên quan đến rượu, bia xảy ra trên địa bàn” – Chủ tịch UBND xã Khun Há nhấn mạnh.
Phòng chống tác hại bia rượu phải đi cùng xóa đói giảm nghèo
Theo Bộ Y tế, tác hại từ việc sử dụng rượu, bia của người lớn đối với trẻ em được ghi nhận phổ biến hơn ở các hộ gia đình ở nông thôn, thu nhập thấp và có người sử dụng nhiều rượu, bia. Chi tiêu cho rượu, bia chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi tiêu của hộ nghèo và là nguyên nhân làm cho tình trạng nghèo đói tăng thêm.
Cụ thể, theo nghiên cứu độc lập của tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam, sự chênh lệch thể hiện rõ ràng nhất trong chi tiêu y tế và giáo dục ở các nhóm nghèo, hộ DTTS. Chi tiêu trên đầu người cho giáo dục và y tế ở các hộ có sử dụng rượu, bia chỉ bằng 48% và 60% so với hộ không có người sử dụng rượu, bia.
Theo báo cáo Tổng quan y tế 2015 của Bộ Y tế, Việt Nam chi bình quân tiêu thụ bia, rượu hơn 3 tỷ USD/năm (khoảng 1,8% GDP), bằng gần 3% thu ngân sách cả nước. Nếu số tiền mua rượu bia này dùng để mua sữa, thì trẻ em ở các hộ nghèo sẽ được uống khoảng 122 cốc sữa/năm thay vì 1 cốc/năm như hiện nay.
Cũng theo Bộ Y tế, phụ nữ và trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số đang là đối tượng gánh chịu tác hại từ việc sử dụng rượu, bia, trong đó người dân tộc thiểu số chịu hậu quả cao gấp 3 đến 4 lần so với người Kinh.
Để giảm thiểu thấp nhất hậu quả mà rượu, bia gây ra ở vùng DTTS, bà Phạm Thị Hoàng Anh – Giám đốc Tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Namcho rằng, cần phải đẩy mạnh truyền thông về tác hại của rượu, bia đối với sức khỏe và gánh nặng kinh tế của sử dụng rượu, bia đối với hộ gia đình, tập trung cho vùng nông thôn và DTTS. Việc phòng chống tác hại của lạm dụng rượu, bia cần được lồng ghép vào các chương trình bình đẳng giới và xóa đói giảm nghèo.
Còn theo ông Phan Văn Hùng – Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho biết: “Thực tế, rượu từ lâu đã là một phần trong cuộc sống của người dân vùng DTTS. Hiện đã có nhiều văn bản, quy định về phòng chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Nếu từng cơ quan, làng xã, bản làng có thêm quy định, có hương ước của riêng mình, thì vấn đề phòng chống sẽ hiệu quả hơn”.
Theo ông Hùng, bên cạnh đẩy mạnh truyền thông, thông tin mạnh mẽ tác hại của rượu, bia ở vùng DTTS theo tinh thần của Luật Phòng chống tác hại rượu bia vừa được Quốc hội thông qua thì một vấn đề quan trọng là cần quản lý thị trường rượu, bia chặt hơn ở khu vực này. Đặc biệt là các loại rượu tự nấu, tránh tình trạng mua bán dễ dàng và tràn lan như hiện nay.
Diệu Hương
Theo Phapluat
Đầu tư mạnh hơn cho đời sống, việc làm của nông dân miền núi
Đó là quan điểm được nhấn mạnh tại hội thảo "Hội NDVN tham gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi", tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 24 của Ban chấp hành T.Ư khóa IX và 25 năm thực hiện Chỉ thị số 45 của Ban Bí thư khóa VIII...
Hội thảo diễn ra sáng 27/6 tại TP.Hòa Bình. Tam dự hội thảo có Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch BCH T.Ư Hội Nông dân Việt Nam (NDVN) Thào Xuân Sùng; Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến; Ủy viên T.Ư Đang, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình Bùi Văn Tỉnh, cùng gần 200 đại biểu la lanh đạo cac bộ, nganh, địa phương; cac doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học...
Những bước "chuyển mình"
Nông dân huyện Yên Châu (tỉnh Sơn La) bao trái xoài để có trái đảm bảo chất lượng phục vụ xuất khẩu. Ảnh: Văn Chiến
Phat biểu khai mac hội thảo, Chủ tịch Hội NDVN Thào Xuân Sùng cho biết: 53 dân tộc thiểu số (DTTS) của Việt Nam có gần 14 triệu người, chiếm 13,6% dân số cả nước; sinh sống thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 xã; chủ yếu ở vùng núi, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt; giao thông, thông tin cách trở, rất hạn chế trong việc tiếp cận với thị trường. Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà nước đã dành sự quan tâm đặc biệt, ưu tiên nguồn lực đầu tư, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng hiện nay vùng DTTS và miền nui vẫn là "lõi nghèo" của cả nước; "đói nghèo, thiên tai, dịch bệnh" vẫn đang là thách thức lớn.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 24 của BCH T.Ư Đảng khóa IX về công tác dân tộc và 25 năm thực hiện Chỉ thị số 45 của Ban Bí thư T.Ư Đảng khóa VIII về một số công tác ở vùng dân tộc Mông, một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, tình hình miền núi và đồng bào DTTS có bước chuyển biến quan trọng, được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống - xã hội. Đoàn kết dân tộc được củng cố, nền kinh tế nhiều thành phần từng bước hình thành và phát triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Việc triển khai thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án đầu tư đã làm cho kết cấu, hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân vùng đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt; công tác giảm nghèo đạt được những kết quả quan trọng; bộ mặt nông thôn vùng dân tộc, miền núi đã thay đổi; tình hình chính trị, trật tự - xã hội cơ bản ổn định; an ninh, quốc phòng được giữ vững.
Tuy nhiên, cùng với đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế do vùng đồng bào DTTS, miền núi còn gặp nhiều khó khăn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, sản xuất nhỏ lẻ; vai trò tham mưu, đề xuất của một số cơ sở Hội với cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền chưa tốt; tình hình thiên tai diễn ra phức tạp gây ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và sản xuất của hội viên, nông dân...
Chủ tịch Thào Xuân Sùng nhấn mạnh: Hội thảo nhằm đánh giá tình hình, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện của Hội trong thời gian qua; phân tích nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; đề xuất giải pháp thiết thực hiệu quả để phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi trong giai đoạn tiếp theo.
Hội ND phát huy vai trò nòng cốt
Tại hội thảo, các đại biểu đã chia se kinh nghiêm phát triển kinh tế, văn hóa xã hội nông thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình Bùi Văn Tỉnh cho biết: Đây là dịp để T.Ư và các tỉnh, thành phố đại diện cụm thi đua cả nước và các tỉnh miền núi phía Bắc đánh giá kết quả đã đạt được trong những năm qua; xác định nội dung trọng tâm trong công tác chỉ đạo, phối hợp, tham gia thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi những năm tiếp theo. Đồng thời, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc, kinh nghiệm trong tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ chung và của từng địa phương.
Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Đỗ Văn Chiến đánh giá cao Hội NDVN đã tổ chức buổi hội thảo. Bộ trưởng đề nghị các đại biểu tập trung làm rõ thêm 3 nội dung: Các chỉ thị của T.Ư khi thực hiện đã thực chất chưa? Bức xúc nhất của nông dân hiện nay là gì, đề xuất các giải pháp để trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư?; Giao nhiệm vụ cho Hội NDVN trong chỉ thị, nghị quyết của T.Ư như thế nào. Bộ trưởng rất mong được nghe các ý kiến từ thực tiễn của các đại biểu để tiếp thu, bổ sung vào báo cáo trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư...
Chủ tịch Hội NDVN Thào Xuân Sùng đề nghị, với tinh thần trên, trong thời gian tới các cấp Hội sẽ tập trung giải quyết thành công các điều kiện để thực hiện được sự bình đẳng trong thực tế và tăng cường đoàn kết các dân tộc.
Về phương hướng xây dựng chính sách, Hội ND đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ lựa chọn các đột phá chiến lược, đầu tư hoàn thành hệ thống đường giao thông, điện lưới quốc gia, nước tưới tiêu và nước sinh hoạt; xây dựng đề án bảo vệ và phát triển rừng theo hướng rừng là của nông dân do nông dân, vì nông dân; xây dựng đề án bảo tồn và phát triển bộ giống cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu và bộ con gia súc, gia cầm bản địa ở vùng DTTS và miền núi theo hướng đa dạng sinh học và đảm bảo môi trường. Đẩy mạnh dạy nghề cho lao động nông thôn và lao động nông nghiệp ở vùng DTTS; xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS theo hướng bố trí xen kẽ với cán bộ người dân tộc Kinh và phù hợp với đặc điểm dân tộc của mỗi địa phương tỉnh huyện xã.
Theo Danviet
Đình chỉ ông Lê Tấn Hùng: Không phải hình thức cuối cùng Việc đình chỉ công tác đối với ông Lê Tấn Hùng không phải là hình thức xử lý cuối cùng, mà chỉ là một bước trong quy trình xử lý. Đó là khẳng định của Giám đốc Sở Nội vụ TP.HCM - ông Trương Văn Lắm trên báo Thanh niên trước việc UBND TP.HCM quyết định đình chỉ chức vụ thành viên không...