Đối mặt với ung thư chỉ bằng… thiền định và niềm tin: “Tôi không c.hết được đâu!” (Kỳ 1)
Bị ung thư đại tràng giai đoạn cuối với khối u to như nắm tay, sư thầy Thích Pháp Đăng tưởng sẽ vĩnh viễn rời xa trần thế.
Sư thầy Thích Pháp Đăng
Vậy mà, 3 năm sau, ngày 12/9/2013, tại buổi gặp gỡ, giao lưu với các giáo sư đầu ngành y khoa tại Đại học Harvard (Mỹ), thầy Pháp Đăng với vóc dáng chắc nịch, vạm vỡ, làn da hồng hào và giọng nói sang sảng đã chia sẻ bí quyết chiến thắng căn bệnh hiểm nghèo bằng phương pháp thiền định của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Thầy bảo: “Sau hơn hai mươi năm tu học, tôi tin tưởng Bụt và pháp môn của Bụt do thầy tôi, thiền sư Thích Nhất Hạnh trao truyền. Cho nên, khi bác sĩ nói rằng: Tôi bị ung thư giai đoạn cuối, tôi không hề hoảng sợ. Tôi tin các bác sĩ nhưng tôi tin ở giáo lý của Bụt nhiều hơn, nghĩa là sống c.hết đều do nghiệp, xin thêm một ngày cũng không được thì hơi đâu mà lo lắng. Sống c.hết chỉ là việc thay áo cũ thành áo mới, đổi xác trà cũ thành trà mới. Tôi dùng năng lượng chánh niệm để sống vui vui trong lúc điều trị. Vì thế tôi vui tươi, cười nói, ca hát suốt ngày và trở nên yêu đời hơn bao giờ hết. Bây giờ ở Pháp, tôi đi bộ mỗi ngày hơn tám cây số. Tôi làm việc suốt ngày không thấy mệt. Người béo tốt, hồng hào hơn xưa. Vừa rồi, tôi đi xét nghiệm lại, sau 3 năm, bác sĩ không phát hiện bất cứ khối u nào hết. Tôi luôn sống trong ý thức sáng tỏ là cơ thể có khả năng tự trị liệu bằng thiền định và chánh niệm”. Câu chuyện về cuộc chiến chống căn bệnh ung thư bằng phương pháp thiền định của sư thầy Pháp Đăng thực sự là một cú sốc lớn với giới y học hiện đại nước Mỹ.
Sư thầy Thích Pháp Đăng sinh năm 1964 ở Huế. Năm 1990, thầy xuất gia tại Đạo tràng làng Mai (Pháp), tu tập theo pháp môn thiền định của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Hơn hai mươi năm toàn tâm tu tập, thầy Thích Pháp Đăng trở thành một đệ tử lớn của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Thầy đã đi nhiều nơi trên thế giới, chia sẻ kinh nghiệm tu tập với tăng thân. Thầy cũng thường xuyên về chùa Từ Hiếu (Huế) để thuyết pháp và hướng dẫn đại chúng tu tập thiền định và chánh niệm, những mong hoằng dương Phật pháp đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh.
Căn bệnh ung thư đại tràng quái ác
Cuộc chiến khốc liệt chống chọi lại với căn bệnh ung thư đại tràng giai đoạn cuối của thầy bắt đầu từ mùa xuân năm 2010. Đầu tiên chỉ là những cơn đau bụng nhẹ, thi thoảng. Sau, tần suất và mức độ đau tăng dần. Cho đến mùa đông, những cơn đau dữ dội liên tục ập đến h.ành h.ạ thầy. Nhiều khi đau quá, thầy nhẹ nhàng đặt hai bàn tay lên chỗ đau, ôm ấp, vỗ về. Thầy tuyệt thực hai, ba ngày thì cơn đau lại dịu xuống. Suốt bảy tháng cơn đau giày vò, h.ành h.ạ như thế nhưng thầy vẫn không hé lộ cho ai biết. Thày sợ, nói ra, anh em đồng tu sẽ lo. Mà thầy cũng sợ đi khám bệnh. Thầy bảo: “Từ trước đến nay, tôi vốn không có niềm tin và thiện cảm với cách khám bệnh máy móc, vô cảm của nhiều y bác sĩ. Tìm ra một bác sĩ có tâm, có tài bây giờ thật là hiếm. Vả lại, tôi không sợ bệnh, không sợ c.hết. Tôi có khả năng chịu đựng đau đớn nên tôi vẫn sống vui. Hàng ngày tôi vẫn thiền hành, thiền tọa, vẫn đi khắp nơi hướng dẫn các khóa tu”.
Cho đến cuối năm 2010, thầy Thích Pháp Đăng nhận được điện thoại của chị gái ở Huế. Chị kể:”Không hiểu sao, con dâu chị thường nhìn thấy ba của chị về nhà thăm cháu. “Thầy ơi! Ba đã mất gần bốn chục năm rồi. Có lẽ nào ba vẫn chưa siêu thoát hả thầy?”. Chị gái thầy khóc trong điện thoại, giọng đầy lo lắng. Thầy lựa lời trấn an: “Ba là người sống nhân từ, độ lượng. Năm Mậu Thân, ba vào Đà Nẵng xin gạo cứu giúp không biết bao nhiêu người đói khát. Ba ăn ở có đức nên chị em mình có được đời sống hạnh phúc như ngày hôm nay. Có điều, ba không may sinh ra phải làm nghề đ.ánh cá. Vì gia đình, vợ con, ba đã bắt không biết bao nhiêu cá nên ba phải trả tấm thân lại cho cá. Mình bắt người ta thì người ta bắt lại mình. Mình mắc nợ người ta thì người ta đòi mình phải trả. Ở đời, có vay thì có trả. Đó là luật đương nhiên trong trời đất, là giáo lý nhân quả rất quan trọng trong đạo Bụt, chị ạ”. Chị gái thầy lại hỏi: “Hàng xóm cũng nói với chị là vẫn thường nhìn thấy ba. Như vậy, ba chưa siêu thoát hay sao?”. Thầy trả lời: “Họ thấy ba là thấy tâm thức ba, chứ thân xác theo luật vô thường thì không còn nữa. Ba có thể dã sinh về cõi phù hợp với nghiệp thức của ba rồi”. giảng giải cho chị gái vậy, song thầy Pháp Đăng vẫn quyết định về Việt Nam để làm lễ trai đàn chẩn tế cầu nguyện, hồi hướng công đức cho ba và ông bà tổ tiên siêu linh cõi tịnh đô.
Cuộc đại phẫu thuật không cần thuốc tê
Trong thời gian đó, những cơn đau bụng dữ dội vẫn h.ành h.ạ thầy. Thầy không ăn uống gì được, phải nhịn cả tuần. Người sụt cân nhanh chóng. Từ 64kg tụt xuống còn 50kg. Đến khi xong trai đàn chẩn tế thì thầy gần như kiệt sức. Gia đình vội vàng đưa thầy lên Bệnh viện Trung ương Huế. Bác sĩ khám sơ qua rồi cho thầy 3 loại thuốc kháng sinh. Uống vào cơn đau càng dữ dội hơn, bụng sưng to. Thầy sực nhớ đến bác Thôn Thất Cầu, Trưởng khoa Ung bướu Bệnh viện Trung ương Huế. Bác sĩ Cầu và vợ thường lên chùa Từ Hiếu nghe thầy giảng pháp. Vừa nghe thầy kể bệnh tình, bác sĩ Cầu bảo:”Thầy phải lên viện cấp cứu ngay”. Xét nghiệm thấy m.áu thiếu trầm trọng, hồng huyết cầu bị phá hủy nhiều. Nội soi, phát hiện thấy một khối u to như nắm tay ở đại tràng. Bác sĩ bảo: “Nó to như vậy thì có thể dã có mặt mười năm rồi. Thầy phải giải phẫu ngay trong tuần này”.
Khi vào phòng mổ, thầy Pháp Đăng yêu cầu các bác sĩ không chích thuốc tê. Bác sĩ ngạc nhiên hỏi: “Thầy chịu không nổi đâu, đau lắm”. Thầy cười: “Mấy tháng nay tôi đã chịu đựng được cơn đau h.ành h.ạ rồi nay, tôi chịu được tiếp. Bác sĩ cứ yên tâm”. Ca phẫu thuật kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ. Bác sĩ cắt khoảng chừng một gang tay hai bên khối u rồi nối ruột già lại với nhau. Sau khi cắt khối u và mang đi xét nghiệm sinh thiết, các bác sĩ kết luận: “Nó là một khối u ác tính giai đoạn cuối. Miệng khối u đã mở ra cho nên một số tế bào ung thư đã đi vào m.áu. Vì vậy, thầy phải hóa trị trong vòng một tháng sau khi mổ”. Thầy Pháp Đăng nhớ lại: “Trong cơn đại giải phẫu, tâm tôi thật bình an và sáng suốt! Thân thể có nhiều đau nhức và tiều tụy bởi tôi nhịn ăn, nhịn uống hơn hai tuần. Gia đình, ai cũng lo lắng cho tôi. Các em tôi thường có mặt tại bệnh viện để chăm sóc tôi. Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân khắp nơi đều cầu nguyện cho tôi. Ngày thứ nhất sau khi mổ, sức khỏe tôi quá yếu. Hình hài tàn tạ quá độ. Bác sĩ không để ống dẫn lưu nên dịch và đờm giải ứ đọng trong dạ dày quá tải, làm cho bụng tôi căng lên như cái trống. Tôi thấy đau đớn nơi vết mổ và khúc ruột nối. Sáng hôm sau, sư cô Thuần Khánh vào thăm, khuôn mặt đầy lo lắng: “Sư anh cảm thấy thế nào? Hôm qua, lúc em vào thăm, thấy nhiều lúc anh không còn thở nữa. Em sợ quá!”. Tôi cười, bảo: “Sư anh chưa c.hết đâu sư em” khiến sư cô Thuần Khánh bật cười, mắt nhòe lệ. “C.hết chưa chắc đã là khổ, sống chưa chắc đã là vui. Khổ là vì thương tiếc, mất mát, lo sợ. Sư anh thương cho người ở lại, sư em biết không? Đau nhức trong thân thì không thể nào tránh được nhưng đau khổ thì sư anh có thể vượt qua. Qua bờ là không có đau khổ bởi cơn đau, mổ xẻ, bệnh tật. Qua sông là không lo, không sợ, bình tĩnh, sáng suốt trong những lúc thử thách này”.
Hai ngày sau khi mổ, sư thầy Pháp Đăng đã muốn ngồi thiền dù còn rất đau. Ngày thứ ba, thầy đã gắng tập đi để cho vết thương cử động, m.áu tới vết thương sẽ mau lành. Ngày thứ 4, thầy bắt đầu uống nước. Ngày thứ 5 sau khi ăn được chút cháo loãng, thầy xin xuất viện. Thầy biết, không khí, năng lượng rất quan trọng. Môi trường ở chùa Từ Hiếu sẽ giúp thầy hồi phục sức khỏe rất nhanh. Ngày thứ 8, bác sĩ Cầu cùng vợ đến chùa thăm khám bệnh cho thầy. Bác sĩ đề nghị: “Một tuần nữa, thầy phải vô viện hóa trị liền vì việc giải phẫu bướu ác tính, những bưới nhỏ sau đó ở nhiều nơi trong cơ thể có thể đột phát một cách dữ dội và sự sống chỉ tính từng ngày, từng tháng”.
Kỳ sau: Trị liệu ung thư bằng… thiền định kết hợp với “thần dược” là… niềm tin.
Theo Xahoi
Những lời tiên tri chính xác 99,99% của các thiền sư Việt
Thông qua những câu sấm truyền, nhiều thiền sư Việt Nam đã tiên đoán chính xác những sự kiện diễn ra sau hàng thế kỷ.
Thiền sư Định Không giải đoán hậu vận đất nước
Thiền sư Định Không (?-808) xuất thân từ một dòng tộc quyền quý họ Nguyễn, ở hương Cổ Pháp, Bắc Ninh. Sử sách ghi lại rằng ông là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc biết đoán định tương lai.
Lời sấm truyền linh ứng sau 200 năm của ông về sự ra đời của nhà Lý vẫn còn được lưu lại đến nay, nội dung như sau:
Pháp khí xuất hiện
Video đang HOT
Thập khẩu đồng chung
Tính Lý hưng long
Tam phẩm thành công
Dịch ra tiếng Việt:
Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng
Họ Lý hưng long
Ba phẩm thành công
Trước khi qua đời, sư truyền lời tiên tri về hậu vận đất nước cho học trò như sau: "Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn".
Hơn 60 năm sau, lời của ông đã linh ứng. Nhà Đường cử Tiết Độ Sứ Cao Biền sang cai trị, bóc lột nhân dân ta. Thâm độc hơn, chúng còn đến nhiều vùng đất, thế núi linh thiêng, nơi sẽ sinh người tài giỏi, trấn yểm triệt phá long mạch, trong đó có đất Cổ Pháp của sư Định Không. Một thế kỷ sau đó Đinh Tiên Hoàng (924 - 979) chấm dứt tình cảnh loạn lạc, sáng lập ra nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ của người Việt.
Sau này, sự chấm dứt của triều Đinh (968 - 980) cũng ứng với một lời sấm không rõ tác giả, xuất hiện vào năm 974:
Đỗ Thích g.iết hai Đinh
Nhà Lê sinh thánh minh
6 năm sau, trong bữa tiệc tối, nhân lúc vua quan say rượu, hoạn quan Đỗ Thích đã g.iết vua và người con cả Đinh Liễn. Sau đó Lê Hoàn nắm quyền kiểm soát triều đình và trở thành hoàng đế, mở ra thời T.iền Lê. Dưới thời của ông đất nước được thịnh trị và giành chiến thắng vẻ vang trước cuộc xâm lược của nước Tống.
Thiền sư La Quý tiên đoán sự ra đời của Nhà Lý
Thiền sư La Quý (852 - 936) là người họ Đinh, cũng được lịch sử ghi nhận với khả năng tiên tri của mình. Tương truyền, trước khi qua đời ông đã trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Diên Uẩn và để lại những bài kệ:
Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh
Dịch là:
Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên
Do những từ "thập bát tử" ở câu số 3 là chiết tự của chữ Lý, nghĩa là họ Lý, nên bài thơ được diễn giải như sau: Đầu rồng hiện ở núi lớn / đuôi rồng giấu sự thịnh vượng / Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/ chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột / chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh". Điều này ứng với sự ra đời của nhà Lý vào tháng 11 (tháng chuột) năm Kỷ Dậu (năm gà) 1009.
Tài tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh
Thiền sư Vạn Hạnh (938 - 1025) là người họ Nguyễn, quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Ông là vị thiền sư có nhiều đóng góp trong việc mở ra nhà Lý đồng thời cũng là một nhà tiên tri.
Câu chuyện nổi tiếng nhất về khả năng tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh gắn liền với cây gạo do thiền sư La Quý trồng ở làng Diên Uẩn. Theo Đại Việt Sử Ký, vào năm 1009, cây gạo này đã bị sét đ.ánh và hiện lên những dòng chữ như sau:
Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Dịch là:
Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hoa đào rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cành khác lại sanh
Đông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình
Sư Vạn Hạnh đã giải đoán rằng, trong câu "Thọ căn diễu diễu" chữ "căn" là gốc, gốc là vua, chữ "diễu" đồng âm với chữ yểu, nghĩa là nhà vua (Lê Long Đĩnh) sẽ c.hết yểu.
Trong câu "Mộc biểu thanh thanh" chữ "biểu" là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ "thanh" đồng âm với chữ thịnh, nghĩa là một người trong số quần thần sẽ lên nắm chính quyền.
Ở câu 3, chữ "hoa đào" ghép lại thành chữ "lê", tức là nhà Lê sẽ sụp đổ. Ở câu 4, ba chữ "thập bát tử" ghép lại là chữ Lý, tức là nhà Lý sẽ lên ngôi.
Trong câu "Đông a nhập địa", chữ "đông" và chữ "a" ghép thành chữ Trần, nói về sự kế tiếp của nhà Trần sau nhà Lý. Câu "Dị mộc tái sanh" nghĩa là một họ Lê khác (Lê Lợi và nhà Hậu Lê) sẽ lại nổi lên...
Qua lời sấm này, thiền sư Vạn Hạnh đã tiên đoán chính xác những diễn biến lịch sử của dân tộc trong khoảng 5 thế kỷ, từ thời T.iền Lê đến thời Hậu Lê.
Việc cây gạo bị sét đ.ánh và hiện ra lời sấm cũng đã được thiền sư La Quý tiên đoán trước đó với câu "Miên thọ hiện long hình" (Bông gạo hiện long hình), câu thứ 4 trong bài kệ năm 936 của ông.
Theo vietbao
Lạ lạ với nghề “vuốt tai” Thoạt đầu, Mơ phân vân: Vuốt tai là thế nào? Nó có giống như mấy cô gái mười tám, mười chín, mặc váy ngắn cũn cỡn, lúc nào cũng ngồi khép đùi, tay thì ráy ráy, cạo cạo tai cho mấy ông trong tiệm hớt tóc, nhưng bộ ngực thì như dán vào vai người ta? Như nhiều người cùng quê Quảng Ngãi,...