Độc đáo lò rèn “cổ” giữa trung tâm Sài Gòn
Hơn 30 năm qua, lò rèn của người đàn ông từng một thời “ngang dọc” vẫn đỏ lửa. Tiếng búa mỗi sáng vẫn vang lên trong con hẻm ở bên hông chợ Nhật Tảo như một “đặc sản” đã đi vào đời sống của người dân thành thị.
Vợ chồng ông Châu bắt đầu ngày là việc mới bằng những âm thanh “chát cụp” quen thuộc
Cứ mỗi sáng, trong con hẻm bên hông chợ Nhật Tảo (phường 4, quận 10 TP.HCM), tiếng búa lại đều đặn phát ra những âm thanh nhịp nhàng từ cái lò rèn của ông Lê Văn Châu (60 t.uổi). Nếu trước đây, có hàng chục lò rèn luôn rực lửa, người người tay quai búa thì nay, có lẽ chỉ còn lại mình ông gắn bó với cái nghề truyền thống này. Hơn 30 năm qua, ông Châu đã chứng kiến bao sự thay đổi về nghề thủ công, rèn sắt.
Gạt những giọt mồ hôi nhễ nhãi trên mặt, ông Châu kể, cái duyên làm thợ rèn đến với ông xuất phát từ một cuộc tình. Mấy chục năm trước, ông gặp và phải lòng một người con gái rồi kết làm vợ chồng. Lúc bấy giờ ông đang làm nghề thợ hồ nên việc mưu sinh cũng lắm gian khó. Thấy cuộc sống của con mình bấp bênh, bố vợ ông Châu (vốn là một thợ rèn có tiếng) đã gọi về truyền nghề cho ông Châu và những người con rể khác.
Hơn một năm theo cha vợ học nghề, ông Châu đã “tốt nghiệp” về tự mở lò rèn riêng kiếm sống. Tuy nhiên, hai vợ chồng ông sống với nhau được vài năm, có với nhau được đưa con gái thì “gãy gánh” chia đôi đường. Ông Châu trở về cuộc sống đơn thân, hàng ngày trút bầu tâm sự vào những nhát búa, vào lò lửa rực hồng. Rồi ông Châu bước thêm bước nữa, người vợ sau của ông là bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, kém ông 9 t.uổi. Hàng ngày bà quanh quẩn bên ông khi thì phụ đ.ập búa, lúc thì cùng ông dọn dẹp. Vậy mà chẳng mấy chốc bà cũng tự mình đứng lò những lúc ông không thể.
Hơn 30 năm qua, ông Châu gắn bó với cái lò rèn này
Video đang HOT
Trong xóm còn nhớ đến thời hoàng kim của ông, lúc bấy giờ tiếng búa “chát cụp; chát cụp” của lò rèn đã trở thành một bản nhạc quen thuộc cứ dòn dã vang lên. Sản phẩm do ông làm ra là những dụng cụ để phục vụ cho nghề gò hàn xe hơi (làm đồng). Những chiếc kéo cắt tôn, búa gò, đe cầm tay, đầm dúm (dùng để lận máng nước mui xe)… Giai đoạn này được xem là thời kỳ “hoàng kim” của nghề rèn, hàng ông làm ra vừa theo đơn đặt hàng, vừa sản xuất hàng loạt để cung ứng cho thị trường các tỉnh.
Khi mới tiếp xúc với những âm thanh “inh tai” phát ra từ lò rèn của ông Châu hẳn ai cũng tự đặt câu hỏi: “Ồn ào như vậy làm sao hàng xóm chịu được, sao họ để cho yên thân mà làm ăn”… Ấy thế mà bao năm qua họ chưa hề than vãn lời nào về cái lò rèn “độc nhất vô nhị” vốn đã hiện hữu hàng chục năm trong xóm này. Mỗi khi nói về lò rèn này, bà con thường biểu lộ một tình cảm đặc biệt với ông chủ lò.
“Lò rèn của ông ấy có mấy chục năm nay, tụi tôi ở đây từ đó đến giờ, nghe tiếng đe, búa quen tai rồi. Ngày nào thấy bên đó im re là mọi người thấy thiếu thiếu gì đó, lại sang hỏi thăm. Vợ chồng ông ấy sống hòa đồng và tốt bụng lắm. Ngày xưa, dù hàng làm nhiều nhưng đến giờ ăn trưa, nghỉ tối là ổng tắt lò, ngưng búa, không phiền lòng mọi người” – Những người hàng xóm đã sống chung với tiếng “chát cụp” của vợ chồng ông Châu khẳng định.
Bà Sáu (ngụ gần lò rèn) tâm sự: “Cái lò rèn trong khu dân cư này đã tạo nên một sắc thái độc đáo. Trong toàn thành phố tìm cho được một lò rèn còn đỏ lửa quả là một việc vô cùng khó. Nhất là khi ngoài thị trường bày bán nhan nhản các dụng cụ cầm tay được sản xuất hàng loạt theo dây chuyền công nghệ hiện đại mà lò rèn này vẫn ngày ngày vang tiếng búa là điều rất hiếm thấy. “T.uổi thơ của tôi cũng từng gắn liền với hình ảnh chiếc lò rèn ở đầu làng, bây giờ mỗi khi nhìn thấy cái lò rèn của ông Châu bao nhiêu ký ức lại ùa về” – bà Sáu tâm sự.
Trong thế giới hiện đại này, những thợ rèn thủ công như ông Châu sắp hết “đất sống”
Số lò rèn tại TP.HCM hiện chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Hiện những người còn duy trì được nghề đến hôm nay phải là những người có tay nghề cao, có uy tín nhưng quan trọng nhất là sản phẩm làm ra đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Trong lúc thị trường đầy ắp những sản phẩm sản xuất hàng loạt bằng công nghệ dây chuyền tự động thì những người làm nghề thủ công như ông Châu đang đứng trước nguy cơ bị “xóa sổ” vì đầu ra sản phẩm bị thu hẹp khiến không còn ai mặn mà theo nghề.
“Nghề nào có nghiệp nấy. Mình già rồi bây giờ làm gì được nữa đây ? Trước đây sư phụ đã truyền nghề, tổ cũng đã ưu đãi một thời gian dài nỡ lòng nào phụ thầy, phụ tổ hở anh” – ông Châu chia sẻ.
Rời khỏi cái lò rèn nằm giữa chốn thành thị phồn hoa, sau lưng tôi, người đàn ông ở độ t.uổi 60 vẫn rắn rỏi, giáng từng nhát búa xuống thanh sắt đỏ lửa, tạo nên những âm thanh “chát cụp, chát cụp”…đã đi vào lòng người hơn 30 năm qua.
Theo Dantri
Bảo tàng nông dân độc nhất xứ Thanh
Suốt 30 năm qua, ông Nguyễn Hữu Ngôn (thị trấn Bút Sơn, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa) đã dày công sưu tầm hàng nghìn hiện vật về nông nghiệp, nông thôn và người nông dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Chủ nhân "bảo tàng mi ni" giải thích lý do sưu tầm hiện vật xuất phát từ ý tưởng Việt Nam là xứ sở của nền văn minh lúa nước, đầy tiềm năng về kinh tế nông nghiệp và hiện đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, người nông dân đã ghi dấu ấn đậm nét.
Cách đây vài năm, ông Ngôn quyết định trưng dụng một phòng lớn trong căn nhà của gia đình để giới thiệu hiện vật cho bạn bè, du khách và nhiều nhà nghiên cứu về thăm. Ảnh: Lê Hoàng.
"Thế hệ chúng tôi đã lớn lên từ hạt lúa, củ khoai, từng lấm lem với mùi bùn đất nên hiểu nỗi vất vả của người nông dân. Hơn thế, có thể nói chính ông cha chúng ta, những con người đầu trần, chân đất đã tạo nên hình ảnh Việt Nam hôm nay. Người nông dân đáng được tôn vinh", ông Ngôn nhấn mạnh.
Hơn 30 năm qua, mỗi dịp rảnh rỗi, ông Ngôn lại đạp xe về các làng quê xa xôi để tìm những thứ người ta vứt đi đem về nhà mình. Khoản t.iền lương ít ỏi hàng tháng đều bị ông nướng vào "sở thích gàn dở" này. Không đủ t.iền, ông làm thêm nghề viết sách báo, chụp ảnh lấy t.iền mua hiện vật.
Hiện trong "bảo tàng mi ni" của ông Ngôn đã có hàng nghìn hiện vật về nông thôn và người nông dân Việt qua các thời kỳ. Từ những dụng cụ nhỏ nhặt như liềm, cuốc, mũ kè, giỏ bắt cua, đến cái cày, bừa, cối xay, máy quạt lúa...
Theo ông Ngôn, mỗi dân tộc Kinh, Mường, Thái, Thổ... hay mỗi vùng quê đều có những dụng cụ sản xuất, sinh hoạt đặc trưng, nên càng đi sâu khám phá, ông càng thấy đam mê. Cách đây vài năm, ông Ngôn quyết định trưng dụng một phòng lớn trong căn nhà của gia đình để giới thiệu hiện vật cho bạn bè, du khách và nhiều nhà nghiên cứu về thăm. Mỗi dịp cuối tuần, ông lại ngồi trầm ngâm ngắm nghía, lau chùi rồi tỉ mẩn ghi chép để phân loại, sắp xếp hiện vật theo hệ thống và từng chủ đề.
Trong bộ sưu tập của ông Ngôn, nổi bật là hệ thống chum chóe, nồi niêu, xoong chậu. Riêng hệ thống nồi của người nông dân xưa, ông Ngôn có cả bộ từ nồi một, nồi hai cho đến nồi ba mươi. Mâm thì có mâm tre, gỗ, đồng cỡ tiểu, trung, đại.
"Chúng ta đã có Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Cách mạng, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Dân tộc học... cùng hệ thống bảo tàng các tỉnh, thành phố và quân, binh chủng... Song dường như có một khoảng trống nếu không muốn nói là khiếm khuyết khi ta chưa có bảo tàng nông nghiệp để bảo lưu, tôn vinh, phát huy những giá trị văn minh nông nghiệp mà người Việt đã sáng tạo hơn 4000 năm qua...", ông Ngôn nhấn mạnh.
Trên tay ông Ngôn là cuốn sổ địa bạ hộ gia đình nông dân thời kỳ phong kiến với hai loại chữ Quốc ngữ và Hán ngữ. Ảnh: Lê Hoàng.
Dù chưa từng được đào tạo qua chuyên môn về bảo tàng học, nhưng theo ông Ngôn, bảo tàng nông nghiệp Việt Nam có thể triển khai theo hai nội dung lớn: văn minh vật chất nông nghiệp Việt Nam và văn hóa nông nghiệp Việt Nam. Văn minh vật chất phản ánh phương thức sản xuất nông nghiệp, như hệ thống công cụ sản xuất bao gồm: công cụ làm đất (cày, bừa, cuốc, mai, vồ...), công cụ làm cỏ (các loại cào, dao phạt, liềm...), công cụ thủy lợi (gàu giai, gàu sòng, kênh mương, cọn nước, đê điều...).
Còn văn hóa nông nghiệp là hệ thống đình, đền, miếu mạo, là cây đa, bến nước sân đình với những câu ca dao, hò vè... thấm đẫm chất dân gian mộc mạc, phản ánh tâm hồn bình dị của người nông dân.
Hiện ông Ngôn đã đề nghị Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu ý tưởng thành lập bảo tàng nông nghiệp Việt Nam tại Thanh Hóa. Bộ Văn hóa có công văn phúc đáp, đ.ánh giá "bộ sưu tầm là rất quý báu, góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị di sản văn hóa Việt. Công trình như một sự ghi ơn những người nông dân truyền kiếp truyền đời cày cuốc làm nên hạt gạo, củ khoai nuôi sống cả dân tộc"...
Theo VNE