Doanh nghiệp mong mỏi triển khai nhanh gói hỗ trợ
Việc giảm thuế đang được nhiều chuyên gia tài chính đánh giá là giải pháp cấp bách để doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh sau khi kiểm soát được dịch bệnh.
Đặc biệt, chính sách giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) cho hàng hóa dịch vụ cần được triển khai cấp thiết để hỗ trợ người tiêu dùng.
Thực hiện đơn hàng xuất khẩu sang thị trường EU tại Công ty May Thái Nguyên. Ảnh: Trần Việt/TTXVN.
Giảm thuế thực chất khi dịch bùng phát
Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị quyết trong đó đề xuất tiếp tục giảm thuế cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng với tổng số tiền thuế dự kiến giảm khoảng 20.000 tỷ đồng.
Theo đó, doanh nghiệp, người nộp thuế bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh sẽ được giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp của năm 2021; giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV/2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực, ngành nghề; giảm 30% thuế GTGT đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ; miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 đối với doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, năm 2019, năm 2020.
“Theo Bộ Tài chính, khối tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp có thể vượt qua khó khăn khi sử dụng nguồn hỗ trợ tài chính 20.000 tỷ đồng vào việc duy trì sản xuất kinh doanh, trả lương, mặt bằng và các chi phí cần thiết mà không phải đi vay, không phải trả lãi vay, đặc biệt không phải hoàn trả lại ngân sách Nhà nước”, ông Nguyễn Văn Được – Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn thuế Trọng Tín cho biết.
Ông Tô Hoài Nam – Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư kí Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (Vinasme) nhận xét: Dự thảo Nghị quyết đã đảm bảo được các yêu cầu, trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, vừa phải tạo ra nguồn thu, vừa phải tính toán thận trọng để hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp.
Theo ông Tô Hoài Nam, hiện cộng đồng doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đứng trước nguy cơ tạm dừng hoạt động, từ bỏ thị trường, phá sản. Kể cả những doanh nghiệp làm ăn tốt, thì chi phí sản xuất, kinh doanh cũng bị đội lên khiến lợi nhuận giảm mạnh. Do đó, chính sách giảm 30% số thuế TNDN phải nộp của năm 2021; giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV/2021, giảm 30% thuế GTGT đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ… là rất cần thiết.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến chuyên gia kinh tế cho rằng: Một chính sách không thể nào giải quyết được hết các vấn đề doanh nghiệp đang phải đối mặt, mà cần sự kết hợp của rất nhiều chính sách, giải pháp khác. Dự thảo Nghị quyết trên nếu được phê duyệt, đi vào thực thi, thì sẽ giảm không ít gánh nặng về tài chính cho doanh nghiệp, giảm chi phí về thuế.
Video đang HOT
Triển khai nhanh chóng để doanh nghiệp vực dậy
Nhiều doanh nghiệp mong mỏi, Chính phủ cần quyết tâm và sớm trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua theo thủ tục rút gọn để chính sách này sớm đến với người dân, doanh nghiệp và phát huy được tính khả thi, hiệu quả, đặc biệt chính sách giảm thuế GTGT. Giảm thuế GTGT đồng nghĩa với việc giảm giá bán, tức là người dân sẽ được mua hàng hóa dịch vụ với mức giá thấp hơn, điều này cần thiết và phù hợp với bối cảnh “bão” giá các sản phẩm hàng hóa đang tăng do ảnh hưởng của chuỗi cung ứng bị gãy tại một số nút thắt… Khi giảm thuế, giá bán giảm sẽ làm kích cầu, từ đó giúp cho nhà sản xuất bán được nhiều hàng hóa dịch vụ hơn, có tác động tích cực hỗ trợ cho khâu sản xuất, lưu thông của doanh nghiệp.
Bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam cho biết: Việc giảm 30% thuế TNDN thì những gói hỗ trợ trước đây đã thực hiện. Chính sách này chỉ có tác dụng đối với các doanh nghiệp có lãi, còn các doanh nghiệp khó khăn vẫn phải nộp thuế GTGT khi có doanh thu. Việc giảm thuế GTGT sắp tới có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. “Ngay sau khi Nghị quyết giảm thuế được ban hành, các cơ quan chức năng cần sớm có văn bản hướng dẫn doanh nghiệp làm thủ tục để được miễn, giảm thuế. Về thủ tục, tiếp tục kế thừa các quy định tại Nghị định 41/2020/NĐ-CP, Nghị định 52/2021/NĐ-CP để đơn giản hóa thủ tục. Chỉ cần làm một lần giấy đề nghị giảm thuế là được giảm thuế TNDN, thuế GTGT”, bà Nguyễn Thị Cúc cho biết.
Ngoài thuế GTGT, thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của hộ cá nhân kinh doanh, tiền thuê đất của các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch dịch vụ lưu trú cũng được nhiều doanh nghiệp mong mỏi hỗ trợ vì họ gặp rất nhiều khó khăn khi dịch bệnh không hoạt động được nhưng vẫn phải trả tiền thuê đất. Mặc dù Nghị định 52/2021/NĐ-CP có gia hạn tiền thuê đất nhưng sau khi hết thời gian gia hạn, doanh nghiệp vẫn phải nộp.
Mặc dù nguồn thu ngân sách bị ảnh hưởng nhưng trong bối cảnh khó khăn, cái được lớn hơn cả đó chính là thể hiện sự đồng hành, quan tâm của Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Theo ông Nguyễn Quốc Hưng – Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính), trong tháng 7/2021, dịch COVID-19 đã và đang tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng, nặng nề tới hoạt động của doanh nghiệp, người dân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và hoạt động của một số nhóm lĩnh vực dịch vụ như: Du lịch, vận tải, lưu trú và ăn uống, chiếu phim, thể thao, vui chơi và giải trí….
Tính chung các giải pháp đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính thực hiện từ đầu năm 2021 và các giải pháp đề xuất bổ sung nêu trên thì số tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân năm 2021 là khoảng 138 nghìn tỷ đồng, trong đó: Gói gia hạn, miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đã ban hành khoảng 118 nghìn tỷ đồng.
Giảm áp lực nợ xấu ngân hàng thời COVID-19
Các đợt bùng phát dịch COVID-19, nhất là từ nửa đầu năm 2021 đến nay đang tác động tiêu cực đến khả năng trả nợ của khách hàng, tạo áp lực nợ xấu lên hoạt động tín dụng ngân hàng.
Giải pháp nào để giảm áp lực nợ xấu cho hệ thống ngân hàng nhưng vẫn hỗ trợ hiệu quả người dân và doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh?
Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank, Hà Nội. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Xoay quanh vấn đề này, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng.
Nhìn lại quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng thời gian qua, ông đánh giá như thế nào?
Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng kể từ khi đưa vào triển khai đến nay đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Cụ thể, Nghị quyết 42 tạo ra hành lang pháp lý cho các tổ chức tín dụng thu hồi nợ. Mặt khác, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc, từ các bộ ngành đến chính quyền địa phương các cấp, tòa án... cùng tạo điều kiện hỗ trợ cho việc hoàn tất thủ tục thi hành án, xử lý tài sản đảm bảo. Hơn nữa, người dân nhận thức được trách nhiệm trả nợ cao hơn nhiều so với trước.
Tổng số nợ xấu xử lý từ khi thành lập Công ty quản lý tài sản (VAMC) đến nay khoảng 550 nghìn tỷ đồng; trong đó 350 nghìn tỷ đồng xử lý theo Nghị quyết 42, chiếm 66%. Trong 350 nghìn tỷ đồng đó có 150 nghìn tỷ đồng là khách hàng tự trả nợ. Điều này cho thấy ý thức trả nợ của khách hàng đã tăng gấp đôi so với trước khi có Nghị quyết 42.
Nợ xấu cũ còn chưa xử lý hết, nợ xấu mới lại có nguy cơ tăng cao do dịch COVID-19, vậy chúng ta phải đối mặt với vấn đề này thế nào, thưa ông?
Nợ xấu thường đi chậm hơn một bước và độ trễ rất dài. Hiện các tổ chức tín dụng đang tái cơ cấu, xử lý để đưa tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn và kết quả triển khai đang rất khả quan, thể hiện sự cố gắng tích cực của các tổ chức tín dụng và ý thức của người dân, khách hàng.
Đồng thời, trình độ nghiệp vụ trong phân tích, thẩm định, đánh giá các khoản vay mới của nhân viên ngân hàng cũng được nâng cao nên hạn chế phát sinh nợ xấu. Tốc độ thu hồi nợ xấu cũ và nợ xấu theo Nghị quyết 42 đang trên đà tích cực.
Tuy nhiên, dịch COVID-19 tiếp tục bùng phát phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh và cả nền kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, tôi cho rằng các ngân hàng đã nhìn nhận đánh giá và xây dựng kịch bản riêng của mình.
Song song với thực hiện giảm lãi suất hỗ trợ người dân, ngân hàng cũng chủ động nâng cao năng lực tài chính và vốn tự có để đảm bảo khả năng của mình trong tương lai. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19. Thông tư 03 yêu cầu trích lập dự phòng trong thời gian 3 năm với tỷ lệ trích lập tối thiểu là 30%, nhưng nếu tình hình tài chính của tổ chức tín dụng tốt nên trích dự phòng các khoản nợ đó ngay từ bây giờ để có dự phòng trong tương lai.
Ngành ngân hàng đang và sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức nào trong việc thu hồi nợ, đặc biệt giữa bối cảnh dịch COVID-19 phức tạp như hiện nay, thưa ông?
Việc thu hồi nợ trong giai đoạn hiện nay là rất khó khăn với các tổ chức tín dụng. Khi khách hàng không phải là đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19 nhưng không có khả năng trả nợ hoặc không trả nợ ngân hàng, phát sinh nợ quá hạn trong thời gian dài, ngân hàng bắt buộc phải thu hồi nợ, thậm chí cả biện pháp rắn là khởi kiện ra tòa, thu giữ, phát mại tài sản đảm bảo.
Thêm nữa, việc tiếp cận để đôn đốc thu nợ khách hàng cũng rất khó do phải đảm bảo các quy định phòng chống dịch COVID-19 nên chỉ dựa chủ yếu vào ý thức khách hàng trong việc trả nợ.
Bài toán đặt ra cho các ngân hàng là làm sao để tạo hiệu ứng với người dân và khách hàng trong giai đoạn này rằng nếu có điều kiện trả nợ, có nguồn thu nhập thì tập trung vốn để trả những khoản nợ cũ và đề xuất các phương án mới để tiếp tục ổn định kinh doanh và phục hồi.
Nhiều ý kiến cho rằng nhiều ngân hàng lãi lớn trong bối cảnh doanh nghiệp và nền kinh tế đang rất khó khăn là điều bất hợp lý. Quan điểm của ông ra sao?
Cần phải nhìn nhận lợi nhuận ngân hàng một cách toàn diện và khách quan. Đó là kết quả của cả một quá trình dài tái cơ cấu trong 5 năm vừa qua. Các ngân hàng đã dành mọi nguồn lực, đảm bảo nâng vốn điều lệ, hệ số an toàn vốn CAR. Có ngân hàng không chia cổ tức nhiều năm để dành vốn dự phòng rủi ro.
Mặt khác, các ngân hàng đang thực hiện cơ cấu nợ theo Thông tư 01/2020 của Ngân hàng Nhà nước nên chưa phải trích dự phòng rủi ro, lợi nhuận vì thế có chiều hướng tăng.
Một yếu tố nữa là việc ứng dụng ngân hàng số tạo điều kiện cho người dân, đồng thời cũng đem lại lợi ích cho ngân hàng. Bởi khi người dân không sử dụng tiền mặt thì số tiền trong tài khoản sẽ tăng lên, chính là khoản tiền gửi không kỳ hạn, tạo điều kiện chênh lệch lãi suất huy động và cho vay được nới rộng.
Ông dự báo thế nào về triển vọng tăng trưởng tín dụng trong 6 tháng cuối năm của ngành ngân hàng? Giải pháp nào để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng, thưa ông?
Ngân hàng Nhà nước mới đây đã điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng. Đây là bước đi rất phù hợp trong giai đoạn này. Bởi dịch bệnh dù đang rất phức tạp nhưng tôi kỳ vọng với những giải pháp mạnh tay của Chính phủ thì sẽ sớm kiểm soát được.
Khi đó doanh nghiệp sẽ trở lại ổn định, duy trì sản xuất và phục hồi. Các doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất do dịch bệnh sẽ trở lại với cường độ làm việc cao hơn, nhu cầu vốn lớn hơn, thì ngân hàng cũng cần tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp đó.
Ngoài ra các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thiết yếu cho trong nước và xuất khẩu, khi trở lại hoạt động cũng rất cần vốn. Các ngân hàng cần đánh giá hiệu quả của phương án kinh doanh để cấp vốn kịp thời cho doanh nghiệp. Đây là cơ hội cho phục hồi sản xuất.
Nhìn nhận được điều này, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động nới room tín dụng cho các tổ chức tín dụng, tạo tiền đề để từ nay đến cuối năm các tổ chức tín dụng có nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp.
Trân trọng cảm ơn ông!
Quốc hội trao cơ chế đặc biệt để Chính phủ, Thủ tướng chống dịch Quốc hội tán thành việc giao Chính phủ, Thủ tướng quyết định và chịu trách nhiệm về việc thực hiện một số giải pháp cấp bách để phòng, chống dịch COVID-19. Cuối buổi làm việc chiều 28/7, Quốc hội thông qua Nghị quyết Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XV với 469/469 đại biểu tán thành. Trong đó, Nghị quyết trao cho...